[Tài liệu văn 12] Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng
Đề bài : Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tha thiết, vời vợi những nhớ thương với mảnh đất Tây Bắc:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Mỗi mảnh đất đi qua là « nơi máu rỏ » để tâm hồn ta thấm đất, mỗi bước chân là mỗi bước ân tình. Bao nhiêu kỉ niệm đã ăn sâu vào tiềm thức, những tháng ngày gian nan, lúc băng rừng, vượt thác, khi hào hùng, lúc mộng mơ, …tất cả được bao bọc trong nỗi nhớ, niềm thương của người đại đội trưởng gửi trao những đồng đội thân yêu. Tây Tiến là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến của mình. Tình cảm thiết tha, ân tình với đất và người xưa phần nào thể hiện trong những vần thơ dạt dào cảm xúc :
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
…..
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Có những bức tượng đài đã trở thành bất tử trong văn học viết về người lính: những nữ anh hùng thủa bà Trưng, bà Triệu “cưỡi voi xông trận”, người nông dân nghĩa sĩ với “manh áo vải, ngọn tầm vông” trong văn Nguyễn Đình Chiểu, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ – Quang Trung …Nhưng có một bức tượng đài đẹp như huyền thoại trong văn học ấy là hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp. Chúng ta đã từng biết đến người nông dân vác súng lên đường đi chiến đấu trong bài “Nhớ” của Hồng Nguyên, người đồng đội thắm thiết ân tình trong “Đồng chí” của Chính Hữu,…Một mảnh đất thân quen của văn học đã bao người cày xới. Đã bao cây đại thụ trưởng thành từ mảnh đất này. Đó là một thử thách không hề nhỏ đối với người cầm bút có ý định viết về mảng đề tài người lính. Nhưng khó khăn càng lớn càng thôi thúc và đánh thức tài năng. Quang Dũng đã không ngần ngại khi lách bút vào kẽ hở của đề tài này và ươm lên một hạt mầm đủ sức vươn cao, trường tồn, bất tử cùng thời gian. “Tây Tiến” là một minh chứng hùng hồn khẳng định lao động nghệ thuật đầy trách nhiệm, ý thức và tình yêu của Quang Dũng.
Một tác phẩm ra đời đôi khi là sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm và ngoại cảnh. Tây Tiến cũng vậy, là kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương mà Quang Dũng gửi về cho binh đoàn Tây Tiến máu thịt, thân yêu của mình. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm
Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Đây là điểm khác biệt rõ nét làm nên chất lãng mạn và trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời chân lí của thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh. Địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Và họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pa-thét Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều.
Chính vì vậy chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một đơn vị khác và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. “Tây Tiến” được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu.
Tác phẩm văn học có thể coi như đứa con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế đặt tên cho tác phẩm cũng là nỗi băn khoăn, trăn trở của mỗi tác giả. Có những tác phẩm tên được đặt đi, đặt lại. “Tây Tiến” của Quang Dũng mới ra đời nó có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ. Đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.
Hai câu thơ đầu đoạn có thể xem là cánh cửa cảm xúc của bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Đã là người con của đất mẹ Việt Nam, có lẽ chúng ta, ai cũng từng một lần trên môi ngân nga khúc hát ngọt ngào “quê hương ai cũng có một dòng sông bên nhà. Đi xa ai cũng nhớ, một dòng sông tuổi thơ…” Một đất nước miền khí hậu nhiệt đới, thiên nhiên lại ban tặng cho hầu hết mỗi tỉnh thành một dòng sông. Nhà thơ Hoàng Cầm yêu con sông Đuống hiền hòa bên làng tranh Đông Hồ cổ kính. Tố Hữu yêu dòng sông Hương với mái chèo man mác và điệu hò Nam ai, Nam bình, Mái nhì, Mái đẩy. Quang Dũng của chúng ta là con của mảnh đất Hà Thành, nơi có dòng sông Hồng thắm đỏ phù sa, nên nỗi nhớ khắc sâu trong tim đáng ra phải là dòng sông ấy. Nhưng điều đặc biệt ở đây là nỗi nhớ lại ùa về theo dòng chảy cuộn xoáy của dòng sông Mã. Phải chăng dòng sông của mảnh đất miền Tây ấy đã gắn bó máu thịt như quê hương thứ hai của nhà thơ. Nên xa rồi mới thấy nhớ thương, thấy vấn vương để cất lên thành tiếng thơ dào dạt.
Dòng sông Mã là dòng sông nằm miền Tây Bắc của tổ quốc, chảy qua Sơn La và Thanh Hóa với hàng loạt chi lưu của nó. Dòng sông ấy đã gắn bó cùng chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến suốt những năm tháng chiến đấu ở nơi đây. Dòng sông đã trở thành chứng nhân lịch sử, chứng kiến bao vui buồn, những niềm vui hân hoan khi chiến thắng, những nỗi đau thầm lặng của sự hi sinh…Một chứng nhân không thể thiếu trong dòng hoài niệm của Quang Dũng khi nhớ về đồng đội thân yêu.Nỗi nhớ này gọi nỗi nhớ kia, dòng sông này chảy về dòng sông khác. Kí ức về đoàn quân Tây Tiến dập dềnh theo sóng nước của dòng sông hoài niệm. Và nỗi nhớ vỡ òa chơi vơi.
Như một sự thật phũ phàng mà Quang Dũng không thể phủ nhận là cho dù hình ảnh dòng sông Mã có thân thương đến mấy, Tây Tiến có gần gũi biết bao thì giờ đây chỉ còn trong hoài niệm, trong kí ức vì tất cả đã “xa rồi”. Tính từ chỉ thời gian được đặt giữa câu thơ như bẻ đôi quá khứ và hiện tại. Như một lẽ hiển nhiên của sự chia cắt. Bởi kỉ niệm càng đẹp thì càng xót xa. Nỗi nhớ thương như đang dâng trào theo con nước cuộn xoáy của dòng sông Mã. Khi biết tất cả đã xa rồi thì Quang Dũng muốn níu kéo. Và như một phản xạ bản năng, tiếng gọi Tây Tiến bật lên thân thương, trìu mến và da diết biết bao. Tây Tiến là danh từ chung chỉ đoàn quân Tây Tiến, nhưng khi Quang Dũng cất lên tiếng gọi “Tây Tiến ơi” thì danh từ chung đã chuyển thành danh từ riêng khi có thán từ hô gọi “ơi” đứng phía sau và người đọc lại có cảm giác như chính tác giả đang gọi một người bạn tri âm, tri kỉ của mình. Có như vậy ta mới hiểu hết hồng tâm đầy tình sâu, nghĩa nặng mà Quang Dũng dành cho đồng đội thân yêu. Dấu chấm cảm cuối câu đầu như một sự khẳng định lại dứt khoát, mạnh mẽ, chắc nịch tình cảm của nhà thơ. Nếu có ai đó, sẽ là không quá, nếu nói rằng câu thơ đầu đã khơi được mạch nguồn cảm xúc cho toàn bộ bài thơ để rồi nỗi lòng của nhà thơ không thể che giấu được, và phải lộ thiên theo ngôn từ, một thứ ngôn ngữ đặc biệt của trái tim.
Câu thơ 7 chữ mà có 4 chữ là tên riêng, đó cũng là nơi gửi, chốn về của nỗi nhớ: Vùng đất miền Tây mà con sông Mã đã trở thành biểu tượng mỗi lần người ta nhắc đến, mảnh đất nơi chiến trường chiến đấu oanh liệt khiến bao thế hệ của Tổ quốc nhìn lại để ngậm ngùi.
Nỗi nhớ không thể chất chứa được trong lòng, nó đã bật lên thổn thức. Câu thơ thứ hai không có chỗ cho hình ảnh thơ mà nó là những khoảng, những chỗ trống cho trái tim lên tiếng. Nói nhớ thôi có lẽ là chưa đủ, nên vần thơ điệp lại: nhớ rồi lại nhớ. Nỗi nhớ cứ ùa về, trào dâng, cuộn xoáy trong lòng. Để diễn tả nỗi nhớ, người ta có thể sử dụng hàng loạt các bổ ngữ: da diết, cồn cào, cháy bỏng, nồng nàn…Nhưng Quang Dũng lại không chọn những từ quen thuộc. Lọc trong hàng ngàn tấn quặng ngôn ngữ để chắt lọc được một ngôn từ trong thơ đó là việc của những bậc thi thánh. Quang Dũng khi viết nhớ chơi vơi liệu ông có nghĩ đến những câu ca dao quen thuộc:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm
Hay Xuân Diệu cũng từng viết
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
Phải chăng khi sử dụng nhớ chơi vơi là Quang Dũng như ngầm một sự so sánh: Nỗi nhớ của tôi dành cho đồng đội thân yêu cũng da diết cháy bỏng như nỗi nhớ, nỗi tương tư của trai gái trong tình yêu. Còn gì sâu đậm hơn? Bản thân từ láy “chơi vơi’ còn có tác dụng gợi hình. Nỗi nhớ ấy dù không có hình, khối, không thể cân, đong, đo, đếm được nhưng chỉ biết rằng nỗi nhớ ấy cứ dâng lên, cứ đầy lên, từ lòng người mà tan thấm, lan tỏa ra bao trùm khắp không gian rừng núi mênh mông.
Hai câu thơ đầu được gieo vần chân – vần “ơi” như tạo độ ngân vang, lan tỏa về âm thanh và đồng thời như diễn tả một nỗi nhớ triền miên, da diết, khôn nguôi của nhà thơ về đồng đội thân yêu của mình. Với thủ pháp “lắng dần” của điện ảnh, tác giả đã để hình ảnh Sông Mã là hình ảnh đầu tiên gọi về nỗi nhớ. Để rồi dòng sông Mã mờ dần cho dòng cảm xúc miên man nhớ về Tây Bắc choáng ngợp tâm hồn nhà thơ, cứ chơi với, hư ảo.
Sáu câu thơ tiếp theo là bức tranh thiên nhiên miền Tây qua chặng đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến:
“Sài Khao sương lấp, đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
-Qua ngòi bút kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tả thực và lãng mạn, thiên nhiên miền Tây hiện lên hoang sơ, hùng vĩ, khắc nghiệt nhưng cũng thơ mộng đến vô cùng. Nơi núi rừng Sài Khao, sương mù bao phủ trắng trời, như nhấn chìm, khuất lấp cả đoàn quân. Sương mù là nét thiên nhiên đặc trưng của chốn núi rừng. Đó cũng là sự khắc nghiệt của thiên nhiên làm tăng thêm sự khó khăn, gian khổ cho đoàn quân Tây Tiến trong quá trình chiến đấu. Thế nên mới dẫn đến một hệ lụy tất yếu là “đoàn quân mỏi”. Thanh trắc của từ “lấp” như vút lên, sương dày, sương che thì bước chân của những chiến sĩ càng nặng nề, nên kết thúc câu thơ là thanh trắc của từ “mỏi”. Nếu chỉ dừng lại ở câu thơ này thì có lẽ cảm xúc chính lắng lại là sự mệt mỏi, nhọc nhằn cả về thể xác lẫn tinh thần.
Nhưng bằng ngòi bút tài hoa và nghị lực phi thường, ngay câu thơ sau với thủ pháp lãng mạn đã nâng đỡ tâm hồn người lính trên con đường hành quân vất vả, gian lao: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Hình ảnh “hoa về” có nhiều ẩn ý. Người đọc có thể hiểu rằng, những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân dù đầy khó khăn, gian khổ nhưng những chàng trai mang tâm hồn hào hoa, lãng mạn của đất Hà thành vẫn yêu đời “ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi”. Khi đoàn quân dừng chân nghỉ tại Mường Lát, quân về cũng là lúc “hoa về”. Đồng thời hình ảnh “hoa về” còn cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tài tình của Quang Dũng, đoàn quân ấy là những chàng trai hào hoa, với tâm hồn đẹp và lí tưởng đang tỏa sắc, lên hương như loài hoa của núi rừng Tây Bắc. “Hoa về” còn có thể hiểu là khi hành quân đêm trong rừng rậm, những chàng lính trẻ đã làm những bó đuốc bằng thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi cháy rất đượm và những tàn lửa tung bay trông từ xa, đoàn quân như một tràng hoa lửa rực rỡ đang về nơi tập kết giữa núi rừng trong làn sương mờ hư ảo.
Hình ảnh thiên nhiên “đêm hơi” được miêu tả lập lờ giữa hai bờ hư, thực. Đêm hơi còn có thể hiểu là đêm có sương mù giăng mắc, một nét đặc trưng đầy khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây. Nhưng chỉ bằng cách thay đổi một từ sương bằng hơi đã làm cho khung cảnh bỗng trở nên lung linh, hư ảo. Người đọc như đang cùng những chàng Lưu, Nguyễn thời đại Hồ Chí Minh vào nhập cõi thiên thai.
Cái tài tình của Quang Dũng là sự đan xen giữa bút pháp tả thực và lãng mạn. Nếu câu trước là nét vẽ gân guốc, đầy khắc nghiệt của hiện thực thì câu sau lại là nét vẽ mềm mại của bút pháp lãng mạn. Đó là sức mạnh nâng đỡ tâm hồn người lính Tây Tiến trên chặng đường trường hành quân đầy gian khổ.
Một nét vẽ đậm, tô đi tô lại con đường toàn những dốc núi chính là điệp từ “dốc” để rồi hiện ra trước mắt người đọc là con đường đi dốc tiếp dốc, hết con dốc này đến con dốc khác:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bức tranh thêm sinh động khi tác giả đã tô vẽ bằng những từ láy tượng hình. “Khúc khuỷu” là con đường vừa dốc lại như gấp khúc, gẫy gập. Con đường hành quân của người lính Tây Tiến vốn đã gian nan giờ độ khó khăn lại còn tăng thêm. “Thăm thẳm” vốn là từ độc quyền để tả độ sâu. Nhưng thật tài tình khi Quang Dũng dùng nó để tả độ cao của dốc núi và nó mang lại hiệu quả bất ngờ. Con dốc mà chót vót thì có lẽ người đọc còn nhìn thấy điểm cuối của con đường và nơi ấy là chỗ dừng chân. Nhưng để từ “thăm thẳm” ở cuối câu trong việc tả con dốc thì dường như cung đường ấy không chỉ cao mà còn dài hun hút, không cùng, không tận, biết đâu là điểm cuối – gian nan nối tiếp gian nan.Từ láy “heo hút” gợi lên sự hoang sơ, vắng lặng của chốn thâm sơn cùng cốc. Nơi mà chỉ có thiên nhiên ngự trị khiến cho con người thêm nhỏ bé, choáng ngợp trước không gian.
Một câu thơ 7 tiếng mà có đến 5 thanh trắc không chỉ diễn tả con đường đi đầy gập ghềnh, gian nan mà còn khiến người đọc như nghe rõ tiếng thở hổn hển của người lính Tây Tiến khi leo dốc. Thế mới thấy thi trung không chỉ hữu họa mà còn có nhạc. Đọc câu thơ mà ngỡ nhạc rung trong lời. Đó là cái tài của nhà thơ.
Con đường đi với dốc tiếp dốc thì hậu quả tất yếu của nó là con đường ấy cao đến tận mây. Đây là hình ảnh tô đậm thêm độ cao cũng như sự vất vả gian nan của người lính Tây Tiến. “Súng ngửi trời” là một nét vẽ làm câu thơ mềm mại, uyển chuyển thậm chí đánh tan hơi thở hổn hển, mệt mỏi và mang nụ cười hóm hỉnh đến đặt trên môi những chàng lính trẻ đó chính là hình ảnh “súng ngửi trời”. “Súng ngửi trời” như một lần nữa khẳng định lại vị thế đứng của người lính Tây Tiến, họ đang đứng trên tầm cao, nơi đất trời đang giao nhau. Nhưng điều lạ là trước hiện thực ấy, Quang Dũng không nói súng chạm trời hay súng chọc trời mà lại là “súng ngửi trời”. Nghệ thuật nhân hóa như hé mở tâm hồn đang đùa vui, bốc tếu đầy hóm hỉnh của những chàng lính trẻ. Những tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Hình ảnh này còn tôn lên tư thế hiên ngang, đang làm chủ hoàn cảnh, đứng trên đỉnh đèo cao. Con người mang tầm vóc kì vĩ, lớn lao. Một tư thế hiên ngang như bức tượng đài của người lính thế kỉ XX, người lính trong thời đại Hồ Chí Minh.
Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên hùng vĩ vô cùng. Bên cạnh đó, Quang Dũng còn khắc họa lại ngọn núi án ngữ sừng sững con đường đi, hai bên dốc núi nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 như bẻ đôi con đường. Hai từ đối lập, trái nghĩa: lên >< xuống khiến người đọc rơi vào cảm giác bất ngờ, như một làn sương lạnh thốc vào giác quan chứng kiến cảnh vật biến động nhanh đến choáng váng. Mà như nhà phê bình Trần Đình Sử đã nhận xét: đọc câu thơ mà Quang Dũng cho, người đọc như đang chơi trò bập bênh đến chóng mặt.
Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo với nhịp thơ như hơi thở dồn dập, tác giả khắc họa cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiên Tây Bắc. Những thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang, Quang Dũng đã thể hiện ánh mắt vô cùng thơ mộng của người lính Tây Tiến để tìm thấy vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt đèo cao, núi sâu. Họ tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua không gian mịt mùng của sương rừng, mưa núi để ngắm nhìn những ngôi nhà đang thấp thoáng trôi nhẹ nhàng giữa biển mưa. Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa gam màu nóng trong hội họa làm dịu lại cả khổ thơ, tạo nên một cảm giác êm đềm. Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, dường như nó lãng mạn hơn, trữ tình hơn. Nhà thơ đầy sáng tạo khi tả mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên một cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng, tả mưa rừng mà cho người đọc cảm giác như đang đứng trước biển khơi mênh mang khác nào bậc kì tài Nguyễn Tuân đã dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà của mình.
Hình ảnh ngôi nhà của ai đó thấp thoáng sau làn sương mù và mây núi thật hư ảo. Nó không chỉ có tác dụng làm cho những người lính thấy ấm lòng khi tìm thấy cuộc sống quen thuộc nơi núi rừng hoang sơ, hiểm trở. Mà ngôi nhà thân thương ấy còn là động lực giúp họ bước tiếp trên con đường chiến đấu gian nan đầy hiểm nguy. Bởi:
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông
Câu thơ thứ 7 với 8 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra một bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc” xưa:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
Sáu câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, Tây Tiến đã trở thành một kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và hững người lính nói chung.
3, Sáu câu thơ cuối đoạn là hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi”
Hai từ “anh bạn” cất lên như muốn đùa vui, hóm hỉnh, như một cái vỗ vai nhẹ nhàng người đồng đội thân quen của mình. Thân thiết biết nhường nào. Trong dân gian ta có câu thành ngữ “dãi nắng, dầu sương” để chỉ sự vất vả, gian truân. Quang Dũng đã rút gọn thành ngữ trong từ láy dãi dầu vừa để gom lại sự nhọc nhằn của những chàng lính Tây Tiến vừa để khắc họa cuộc sống và chiến đấu đầy khắc nghiệt. Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của chiến tranh. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi là những tất yếu.
Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt như vậy khiến cuộc hành quân của người lính Tây Tiên vô cùng gian khổ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt, ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng, thấm thía“…không bước nữa”và “gục lên súng mũ” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Người lính ấy không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Cụm từ ‘bỏ quên đời” trong câu thơ có nhiều cách hiểu. Cũng có thể là người lính TT, trên chặng đường hành quân mệt mỏi, họ không đi nữa và dừng chân lại nghỉ và giấc ngủ say đến thật nhẹ nhàng. Trong giây phút ấy, người lính như gác lại, để quên những khó khăn, nhọc nhằn của cuộc chiến đấu. Nhưng cũng có thể hiểu rằng các anh nằm xuống và vĩnh viễn không bao giờ đứng dậy cùng đồng đội tiếp tục cuộc chiến đấu trường kì được nữa.
Cái chết của các anh đựơc miêu tả nhẹ nhàng, thanh thản bởi nghệ thuật nói giảm, nói tránh. Ba chữ:”bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng:“Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi“(xưa nay chinh chiến mấy ai trở về). Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Đây là hình ảnh vừa bi vừa hùng mang không khí thời đại. Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng: “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày trở về giống như một lời ca của một thời: “Đoàn vệ quốc quân 1 lần ra đi, nào có mong chi đâu ngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà quyết không lui”. Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến mất mát, hi sinh nhưng vẫn không bị lụy về thái độ của người hi sinh. Người chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo đựoc khó khăn nhưng họ không chịu khuất phục. Họ đứng trên cái chết, coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”và sẵn sàng đón nhận nó vì Tổ quốc thân yêu.
Bấy nhiêu khắc nghiệt mà người lính phải chịu đựng vẫn chưa phải là tất cả bởi vùng rừng núi miền Tây ấy còn là nơi ngự trị của âm u, hoang dã, của thác cao, sông sâu, suối dữ. Sự hoang dã ấy không chỉ đựơc mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cả thời gian với những đe dọa khủng khiếp luôn rình rập con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hết chiều chiều lại đến đêm đêm, những hiểm nguy cứ kéo dài, triền miên không dứt. Lúc nào cũng đe dọa những người lính Tây Tiến. Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động những tiếng nói riêng của núi rừng.
Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí. Cảnh hoang vu của núi rừng Tây Bắc đúng là thử thách ghê gớm đối với người lính Tây Tiến. Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian kết hợp với biện pháp nhân hóa “thác gầm thét”,”cọp trêu người “đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội, hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính của núi rừng miền Tây. Đồng thời cho thấy sự đùa vui hóm hỉnh, coi nhẹ những gian khó hiểm nguy của những chàng lính trẻ.
Qua cách sử dụng thanh điệu: hai thanh trắc là hai dấu nặng ở hai từ “hịch, cọp” , nhà thơ Trần Lê Văn từng nhận xét “Hai chữ có dấu nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp“. Trước đó lại kết hợp với cả hai thanh bằng đã tạo nên một quá trình rình mồi rồi bất ngờ vồ mồi của loài cọp dữ. Hình ảnh trên trang giấy được nhà thơ tài tình lưu giữ thành những kỉ niệm gian khổ, khắc nghiệt không thể quên của những chàng lính chiến.
Đoạn thơ đã khép lại bằng một cảm xúc thật ấm áp và ngọt ngào
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi
Trên đuờng hành quân cheo leo đầy trắc trở, đoàn quân dừng lại nghỉ chân nơi bản làng. Một bát cơm nếp xôi còn nóng đang bốc khói, tỏa hương. Hương vị ngọt ngon của những bát xôi nếp thơm do những bông hoa của núi rừng Tây Bắc đem tới đã khiến cho các chàng trai hào hoa, phong nhã như quên đi tất cả nỗi vất vả về thể xác suốt dọc đường để đón nhận tình quân – dân nồng đượm. Ba thanh trắc với ba dấu sắc của từ “nhớ, Tiến, khói” không chỉ cho người đọc hình dung được làn khói tỏa ngào ngạt của bát cơm xôi nếp, mà còn như nghe được tiếng suýt xoa của những người lính Tây Tiến khi đón nhận bát cơm còn ấm nóng tình người. Hương vị của nếp xôi, hương vị của lòng người. Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và tình người đằm thắm.
Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Thán từ “nhớ ôi” gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp, khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui. Mãi là mảnh tâm hồn của người cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Đoạn thơ đã cho thấy nét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng câu thơ đỡ câu thơ, hình ảnh đỡ hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng, sự gian lao của hành trình, những người lính Tây Tiến vẫn có phút dừng chân thư thái yên bình với những hình ảnh lãng mạn, trữ tình, thơ mộng.
III/ Kết bài
Lấy cảm hứng từ cuộc sống chân thực mà chính bản thân tác giả trải qua, những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Thêm một lần nữa Quang Dũng đã đưa chúng ta về với tây Tiến với những kí ức vừa lãng mạn vừa bi tráng. Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước.
Chủ đề:Bình giảng 14 câu thơ đầu bài Tây Tiến, Cảm nhận 8 câu tiếp bài thơ Tây Tiến, Cảm nhận bức tranh thiên nhiên và hình tượng người lính Tây Tiến trong 14 câu thơ đầu, Dòng sông nào xuất hiện đầu Tiến trong bài thơ Tây Tiến, Hình tượng người lính Tây Tiến 14 câu đầu, Lập dàn ý 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến, Mở bài gian tiếp 14 câu đầu Tây Tiến, Soạn Tây Tiến đoàn 1