
Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ “Bầy chim sẻ có nhìn thấy tôi?” của Nguyễn Phong Việt
Bầy chim sẻ có nhìn thấy tôi?
Bầy chim sẻ bị nhốt trong chiếc lồng và chở đi trên phố
cứ ríu rít kêu mãi không thôi
Tôi đi trong dòng người
liếc ngang liếc dọc
nhìn những con chim sẻ thất thần, rụng lông, ngơ ngác
rồi nhìn ra chung quanh…
Những con chim sẻ không được bay trong bầu trời xanh
một điều ngịch lý
bạn bè tôi nhiều khi phải sống không theo cách mình nghĩ
một điều bình thường?
Rồi những con chim sẻ sẽ được phóng sinh
một người đi bên cạnh tôi bảo thế
cuộc đời mà lẽ ra nó được hưởng với mây, mưa và gió…
chẳng cần đợi một bàn tay cứu rỗi nào
Bầy chim sẻ bị nhốt trong chiếc lồng
có nhìn thấy được tôi đâu?
– Nguyễn Phong Việt
GỢI Ý
* Tâm trạng nhân vật trữ tình khi nhìn thấy bầy chim sẻ bị nhốt trong lồng:
+ Thương cảm, xót xa cho những con chim thất thần, rụng lông, ngơ ngác.
+ Đầy suy tư, day dứt, trăn trở khi nghĩ đến những điều phi lí của cuộc sống: chim không được bay trên bầu trời, con người không sống theo cách mình nghĩ.
+ Suy ngẫm về chính mình, băn khoăn tự hỏi có phải mình cũng đang trong một chiếc lồng vô hình.
* Tâm trạng của nhân vật trữ tình được chuyển tải qua hình thức nghệ thuật độc đáo:
+ Thể thơ tự do phóng khoáng, linh hoạt.
+ Xây dựng hệ thống hình tượng trong thế sóng đôi: chim sẻ- con người để nêu lên những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống.
+ Câu hỏi tu từ (từ nhan đề đến các câu thơ), nghệ thuật đối,… thể hiện cảm xúc đầy day dứt, trăn trở.
Đoạn văn 200 chữ phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ “Bầy chim sẻ có nhìn thấy tôi?” của Nguyễn Phong Việt
Trong bài thơ “Bầy chim sẻ có nhìn thấy tôi?”, Nguyễn Phong Việt đã khắc họa tâm trạng đầy day dứt và trăn trở của nhân vật trữ tình khi chứng kiến những con chim sẻ bị nhốt trong lồng. Hình ảnh “chim sẻ thất thần, rụng lông, ngơ ngác” gợi cảm giác thương cảm, xót xa cho sự tù túng và mất tự do của sinh vật bé nhỏ vốn thuộc về bầu trời rộng mở. Nhưng từ hình ảnh đó, nhân vật trữ tình không dừng lại ở lòng thương xót, mà lặng lẽ suy tư về một nghịch lý lớn hơn: “chim không được bay trên bầu trời xanh” – cũng như nhiều người “sống không theo cách mình nghĩ” lại trở thành điều bình thường. Ẩn sau đó là nỗi niềm giằng xé và hoài nghi về chính mình – liệu bản thân có đang sống như một chú chim bị giam cầm bởi chiếc lồng vô hình của xã hội? Những câu hỏi tu từ, giọng thơ trầm lặng và cách xây dựng hình ảnh chim – người theo cặp sóng đôi đã làm nổi bật tâm trạng băn khoăn, đau đáu của cái tôi trữ tình trước hiện thực phi lý, đồng thời thể hiện khát vọng sâu xa về một cuộc sống tự do, đúng nghĩa của cả loài chim và con người.