[Văn 10 Cánh diều] Phân tích bài thơ “Tự tình” (II)
Phân tích bài thơ “Tự tình” (II) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương
I/ MỞ BÀI
Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái tim, là những cảm xúc chân thành mà mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi vậy, Diệp Tiến cho rằng, “thơ là tiếng lòng”. Thơ là thư kí trung thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội để qua đó, nhà thơ bộc bạch nỗi lòng mình. Trong số những “ tiếng lòng” trong thơ, ta bắt gặp nỗi lòng đầy xót xa, tủi hổ của Hồ Xuân Hương cũng là của những người phụ nữ sống trong xã hội xưa.
Hồ Xuân Hương xứng đáng với danh hiệu bà chúa thơ Nôm và là một hiện tượng đặc biệt của thơ ca trung đại Việt Nam. Chùm thơ Tự tình của bà gồm ba bài là sự phản ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ một người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì. Trong đó Tự tình (bài II) được coi là bài thơ hay nhất, giàu cảm xúc và lắng đọng nhất:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
…Mảnh tình san sẻ tí con con!”
II/ THÂN BÀI
1/ Khái quát
– Thể loại và ngôn ngữ: Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng đáng chú ý là nó không được viết bằng chữ Hán mà được viết bằng chữ Nôm là chữ viết ghi lại tiếng nói của dân tộc. Và phải đến thời Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du thì phong trào làm thơ Nôm mới đạt đến đỉnh cao thực sự.
– Hoàn cảnh ra đời: Hồ Xuân Hương là người phụ nữ đa tài, đa tình, giao du rộng rãi mà số phận truân chuyên, cuộc đời đầy éo le ngang trái và duyên phận hẩm hiu. Bà là con vợ lẽ, lại muộn màng trong đường tình duyên, từng hai lần làm lẽ rồi hai lần đều duyên phận ngắn ngủi, rơi vào cảnh góa bụa. Chính hoàn cảnh éo le ấy là nguồn cảm hứng cho bà sáng tác chùm thơ Tự tình. Bài thơ Tự tình (bài II) là hình ảnh người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trong đêm khuya thanh vắng than ngẫm, đau xót cho thân phận của mình.
– Nhan đề: Tự tình trước hết có nghĩa là bộc lộ cảm xúc, tâm tình. Với đặt nhan đề như vậy, bài thơ là lời tự bộc bạch, lời của tâm hồn, con tim muốn được thổ lộ, giãi bày. Khi có tâm trạng cô đơn, trống trải người ta thường tìm đến một đối tượng khác để tâm tình nhưng Xuân Hương ở đây lại tâm sự với chính mình, nói về chính mình, về nỗi cô đơn, bất hạnh của chính mình. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ là nỗi tự tình của riêng Xuân Hương mà còn là nỗi đau, sự bẽ bàng của những người phụ nữ bị chèn ép, bị chế độ phong kiến làm cho dang dở, lẻ loi.
2/ Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường
Hai câu đề trong bài thơ thất ngôn bát cú thường có nhiệm vụ làm cho người đọc “mở cửa ra thấy núi” (khai môn kiến sơn). Hai câu thơ đầu trong bài thơ này cũng vậy, gợi ra không gian, thời gian và tâm trạng tê tái của người phụ nữ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Trong đó, câu thơ thứ nhất thể hiện thời gian và thời gian ở đây là lúc đêm khuya, là khoảng thời gian dễ gây tâm trạng. Bước đi của thời gian được cảm nhận rõ qua tiếng trống canh. Bởi vì, thời xưa đêm thường được chia thành năm canh, giữa các canh thường có trống báo hiệu. Tiếng trống canh vang lên giữa đêm khuya báo hiệu thời gian đang trôi đi.
Trong khi mọi người đã chìm sâu vào trong giấc ngủ để nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt mỏi, thì nhân vật trữ tình ở đây lại thao thức, trằn trọc không ngủ được. Không gian là khoảng không bao la, rộng lớn yên tĩnh, vắng lặng nghe thấy “văng vẳng trống canh dồn”. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh lấy cái âm thanh “văng vẳng” (từ láy) của tiếng trống canh để nói cái không gian tĩnh lặng về đêm. Lấy cái ngoại cảnh để nói tâm cảnh. Là cảnh vật tác động đến con người hay là vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đêm khuya thanh vắng là lúc con người ta trở nên bé nhỏ và lạc lõng vô cùng khi giường đơn gối chiếc đối diện với chính mình. “Trơ”ở đây là trơ trọi, là cô độc chỉ có một mình được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh nỗi đau, sự bất hạnh của một người phụ nữ. “Hồng nhan” là chỉ cái vẻ đẹp nhan sắc bên ngoài của người con gái nhưng cũng là để nói đến cái phẩm hạnh là tấm lòng son bên trong. Chữ “cái” vốn chỉ vật bé nhỏ, tầm thường được sử dụng nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả “cái hồng nhan” cho thấy sự tủi hổ, bẽ bàng khi nhan sắc, đức hạnh của người phụ nữ bị coi rẻ, bị mỉa mai. “Nước non” chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội bên ngoài, chỉ không gian rộng lớn. Như vậy từ “Trơ” nhấn mạnh cái nhỏ bé, đơn chiếc trước cái rộng lớn là “nước non”, là sự thách thức của một con người có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Nó có cùng hàm nghĩa với chữ “trơ” trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Vì lắm đau buồn mà nét mặt con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người như hóa đá không còn cảm giác.
Nhìn chung, bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, gợi cảm, Hồ Xuân Hương đã gợi tả, đã tự giãi bày nỗi cô đơn, lẻ loi, buồn tủi, bẽ bàng của mình. Đó cũng là tình cảnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đặc biệt là những người phụ nữ phải rơi vào cảnh lẽ mọn:
Tối tối chị giữ lấy chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài
Người đọc tưởng như nghe được cả tiếng thở dài đầy ngao ngán của người phụ nữ trước duyên phận bẽ bàng. Và tình cảnh ấy đã từng khiến Hồ Xuân Hương uất hận mà viết:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
3/ Hai câu thực: Thể hiện rõ nét hơn tình cảnh cô đơn, buồn tủi, chán chường
Khi nỗi buồn đè nặng đến không chịu đựng nổi, Hồ Xuân Hương muốn vùng vẫy chống lại, giải thoát. Bởi vậy, nữ thi sĩ tìm đến rượu, bà muốn mượn chút hương nồng, đê mê ngây ngất của rượu để quên đi nỗi buồn nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau, nỗi buồn không nguôi trong vòng xoáy luẩn quẩn.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Câu thơ của nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:
“Rút dao chém nước, nước càng chảy
Nâng chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu”
Gợi liên tưởng cả tâm trạng Thúy Kiều khi tỉnh rượu vào lúc tàn canh:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Tưởng nâng chén tiêu sầu hóa ra càng sầu thêm, càng xót xa, tủi hổ nên sau đó nữ thi sĩ tìm cách khác để giải sầu:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Xuân Hương tìm đến thiên nhiên để xoa dịu nỗi đau nhưng ngẩng đầu lên ngắm trăng thì trăng đã xế khi chưa lúc nào tròn. Vầng trăng hao khuyết ở đây vừa là hình ảnh thiên nhiên vừa là hình ảnh tượng trưng cho tuổi xuân sắp qua đi mà tình yêu vẫn chưa bao giờ được trọn vẹn, được ắp đầy. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh tài hoa mà phải chịu cảnh dang dở. Nguyên do ấy là vì đâu? Phải chăng như Nguyễn Du đã từng nói về “Tài mệnh tương đố”, vì “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
4/ Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân Hương
Hai câu luận là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình, mượn ngoại cảnh để nói cái “chí”, cái “tình”bên trong.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Rêu và đá là hai sự vật nhỏ bé nhưng không hề yếu mềm mà mang một sức sống mãnh liệt. Rêu vốn mềm yếu bỗng dưng vươn dậy đầy sức mạnh, có thể “xiên ngang mặt đất”. Đá vốn đã cứng nhưng im lìm, thấp bé giờ đây trở nên cứng hơn, sắc nhọn hơn và vươn lên cao để có thể “đâm toạc chân mây”. Hình ảnh thiên nhiên với sức sống mãnh liệt, phép so sánh, cường điệu kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ và các động từ mạnh “xiên”, “đâm” cộng với bổ ngữ “ngang”, “toạc” vừa nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên nhưng cũng là để nhấn mạnh tâm trạng của con người phẫn uất, phản kháng không chịu chấp nhận số phận.
Các hình ảnh thiên nhiên cùng các biện pháp nghệ thuật ấy thể hiện rõ sự vùng vẫy, bứt phá, phản kháng của Hồ Xuân Hương. Dường như nữ thi sĩ đang muốn xé trời, vạch đất cho thỏa nỗi hận sầu, để thoát khỏi bi kịch của duyên phận, cuộc đời, thoát khỏi sự sắp đặt của số phận. Phản ứng của nữ sĩ tuy mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn là đắng cay, chua chát. Hồ Xuân Hương sống vào khoảng thời gian cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì mà chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ” với chế độ đa thê nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới, đòi quyền bình đẳng, muốn được sống, được yêu thương và có được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy không hề dễ dàng bởi chính bản thân bà vẫn phải chấp nhận số phận éo le, ngang trái.
Số phận của thi sĩ cũng chính là số phận của biết bao những người phụ nữ trong xã hội xưa. Chính điều đó đã khiến cho Nguyễn Du phải khóc than cho thân phận của nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều và những người phụ nữ như Hồ Xuân Hương:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
5/ Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán ngán, buồn tủi
Xuân Hương không muốn cam chịu nhưng vẫn phải chấp nhận, bà biết làm gì khác ngoài việc trở về với chính lòng mình. Hai câu kết nói về tận cùng của sự đau khổ, chán chường, buồn tủi của tác giả:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
“Ngán”ở đây là tâm trạng, cảm xúc ngao ngán, chán nản cuộc đời ngang trái. Xuân chỉ mùa xuân của đất trời, mùa của muôn hoa đua nở khoe sắc khoe hương, mùa của sum họp nhưng còn có hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân thì của người phụ nữ. Hai từ “lại lại” cho thấy sự tuần hoàn lặp đi lặp lại, chỉ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời qua đi rồi trở lại, nó đến mang đi mùa xuân của con người và mùa xuân của con người thì một đi không trở lại, chỉ còn “Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha” (Truyện Kiều).
Đáng lẽ mùa xuân tươi đẹp căng tràn nhựa sống trở về con người phải cảm thấy hớn hở, vui mừng thì thi sĩ lại càng cảm thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ xuân đến là một lần tuổi đời lại thêm, tuổi trẻ dần qua đi mà bản thân mình vẫn đơn độc, thiếu thốn yêu thương.
“Mảnh tình san sẻ tí con con”, câu thơ cất lên đầy ai oán chua xót. Trong một bài thơ khác Hồ Xuân Hương đã từng viết: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” để cho thấy tình cảnh làm lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội cũ. Thanh xuân của người con gái có được là bao nhiêu, đã ít rồi lại còn ngày một ngắn lại. Vậy mà mảnh tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy. Cách dùng từ độc đáo, cho thấy sự nhỏ dần, ít dần của tình duyên, hạnh phúc: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ – càng ít hơn và cuối cùng phần nhận được chỉ còn lại “tí con con”. Người phụ nữ ấy vẫn khát khao một hạnh phúc trọn vẹn để được trao đi sự thủy chung, thế mà trái tim lại bị chia cắt, chảy máu. Nghệ thuật tăng tiến không chỉ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của tình cảm mà còn góp phần thể hiện rõ hơn nỗi đau, sự uất ức, càng làm cho nghịch cảnh càng trở nên éo le hơn.
Bằng khả năng điều khiển ngôn ngữ tài tình, Hồ Xuân Hương đã cho người đọc phần nào thấy được thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ, tình yêu bị san sẻ, hạnh phúc không thể với đến. Nhưng đồng thời ở đó, ta còn thấy được khát khao hạnh phúc mãnh liệt của họ. Qua những vần thơ đó Hồ Xuân Hương cũng lên án xã hội phong kiến đã kìm kẹp, phá tan nhu cầu, khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người.
6/ Đánh giá
Hồ Xuân Hương đã vận dụng sáng tạo thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật với ngôn ngữ tiếng Việt nhưng không làm mất đi giá trị của thể thơ mà trái lại nó còn mang đến cho thể thơ cổ điển ấy một vẻ đẹp mới, gần gũi, thân thuộc hơn với người Việt. Từ ngữ giản dị mà đặc sắc với những động từ mạnh kết hợp nghệ thuật đảo ngữ (xiên ngang mặt đất/ đâm toạc chân mây), từ láy tượng thanh đã thể hiện khao khát đến cháy bỏng và sự nổi loạn trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương. Những hình ảnh giàu sức gợi (trăng khuyết chưa tròn, rêu từng đám, đá mấy hòn,…) để diễn tả các cung bậc cảm xúc, sự tinh tế, phong phú trong tâm trạng của người phụ nữ khi nghĩ đến thân phận của mình.
III/ KẾT BÀI
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự nói lên nỗi lòng của một người phụ nữ lận đận trong đường tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn xứng đáng với tấm chân tình của mình. Tâm trạng vừa buồn tủi, xót xa lại vừa uất ức cho thân kiếp làm lẽ của người phụ nữ đồng thời cũng là bi kịch và khát vọng hạnh phúc cá nhân của Hồ Xuân Hương. Bài thơ truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc tới độc giả dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên muốn thay đổi số phận, thay đổi nghịch cảnh mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn với hạnh phúc lứa đôi và tình duyên trọn vẹn.
🔻 Xem thêm: