Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người


Đề: Có ý kiến cho rằng: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”. Từ ý kiến trên, hãy phân tích sự gắn bó giữa con người và quê hương trong một vài tác phẩm đã học và đã đọc.
I. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề
– Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Sự gắn bó giữa con người và quê hương.
– Dẫn câu nhận định: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”
II. Thân bài:
a. Giải thích ý kiến
– “Người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương”: con người không sống ở quê hương, không trực tiếp gắn bó với quê hương về mặt thể xác.
– “Không thể tách quê hương ra khỏi con người”: quê hương là bản quán, tập tính của con người, tình cảm dành cho quê hương vẫn luôn hiển hiện bên trong tâm hồn mỗi con người dù họ có rời xa quê.
=> Ý kiến khẳng định tầm quan trọng của quê hương trong việc nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm của một con người. Vì “Quê hương nếu ai không nhớ – Sẽ không lớn nổi thành người” nên tình quê ấy trở thành nguồn sống nuôi dưỡng tâm hồn con người.
b. Chứng minh
Học sinh có thể chứng minh trong những bài đã học, đã đọc. Cụ thể có thể chọn những tác phẩm như: Làng – Kim Lân, Nói với con – Y Phương, Cố hương – Lỗ Tấn, Hồi hương ngẫu thư – Hạ Tri Chương.
Học sinh chứng minh theo hai luận điểm sau:
b.1. Con người có thể không được sống ở quê hương, mỗi người một lí do riêng nhưng đều không được ở nơi chôn rau cắt rốn.
– Làng: Ông Hai đi tản cư.
– Cố hương: “tôi” xa làng đến 20 năm.
– Hồi hương ngẫu thư: Hạ Tri Chương cũng xa quê từ khi còn trẻ, lúc trở về thì đã già.
b.2. Nhưng không thể tách quê hương ra khỏi con người.
– Dẫu xa cách, những con người của quê hương vẫn dành phần trang trọng nhất trong trái tim hướng đến quê hương của mình.
– Mỗi người có một cách yêu quê hương khác nhau, nhưng đều thể hiện sự gắn bó, tình cảm thiết tha dành cho nơi chôn rau cắt rốn, cho mảnh đất cha ông.
+ Ông Hai luôn nhớ về làng Chợ Dầu, dõi theo từng tin tức ở làng, tâm trạng ông biến đổi từ xấu hổ, đau đớn khi nghe tin làng theo giặc cho tới hạnh phúc lúc nghe tin làng được cải chính. Cơ nghiệp lớn nhất của người nông dân – ngôi nhà, bị đốt nhẵn mà ông hạnh phúc tột cùng vì danh dự của làng quê được bảo toàn, ông lại có thể tự hào về cái làng của ông.
+ “Nói với con”: người cha bày tỏ tình yêu quê hương và niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình; để tâm sự với chính mình và nhắc nhở con cái sau này.
+ Cố hương: “tôi” đau đáu về sự đổi thay của những con người nơi quê hương theo hướng ngày một xấu đi. Từ đó, không chỉ nói về chuyện làng quê, nhà văn đã phê phán lễ giáo phong kiến, đặt ra vấn đề con đường đi của người nông dân và của toàn xã hội.
+ Hạ Tri Chương: con người trở về trong hoàn cảnh éo le, trở thành khách trên quê hương của chính mình nhưng có một điều không thay đổi là “hương âm vô cải” (giọng quê vẫn thế) – quê hương ăn sâu vào máu thịt – khẳng định sự son sắt, thủy chung của con người dành cho quê hương mình.
3. Kết bài.
– Tình yêu quê hương, lớn hơn là tình yêu đất nước là một trong hai nguồn mạch nuôi dưỡng văn chương.
– Qua những tác phẩm trên, nuôi dưỡng cho chúng ta những tình cảm tốt đẹp dành cho mảnh đất sinh thành của mình.
Bài văn mẫu
Có người từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người.”- dù con người và quê hương có bị cách trở bởi địa lí nhưng những tình cảm thì không gì ngăn cách. Đó là chân lí của cuộc sống và cũng là chân lí của văn chương. Cho đến khi đọc truyện ngắn “Làng” của nhà văn kim Lân- một nhà văn am hiểu, gắn bó với cuộc sống nông thôn, dường như ta lại càng cảm nhận sâu sắc hơn chân lí ấy. Qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhà văn đã gửi gắm vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, tư tưởng mới mẻ: tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu đất nước.
Nhân vật ông Hai là điển hình cho người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Đối với ông, tình yêu làng quê gắn với cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tất cả buồn vui của ông đều bắt nguồn từ chuyện làng, tin cách mạng. Thói hay khoe làng cho thấy tình yêu và niềm tự hào của lão nông ấy đối với ngôi làng chợ Dầu: ông khoe làng có chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, khoe đường làng lát toàn đá xanh…Sau cách mạng tháng Tám, ông lại khoe về tinh thần kháng chiến ở làng với niêm kiêu hãnh vô bờ. Yêu làng như thế nên khi phải xa làng, đến nơi tản cư, ông lão nhớ làng lắm, nhớ những ngày đào hầm, đắp ụ, nhớ những khóa bình dân học vụ…Phải có tình cảm gắn bó máu thịt với mảnh đất chôn rau cắt rốn, ông Hai mới mang trong mình nỗi nhớ da diết đến vậy.
Nhưng trớ trêu thay, ngôi làng mà ông lão hết sức tự hào, đi đâu cũng khoe kia lại bị đồn là làng Việt gian. Mới đầu khi nghe giặc vào làng, ông lão giật mình, lắp bắp hỏi: “N..nó vào làng chợ Dầu khủng bố hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?” Câu nói ấy cho thấy ý nghĩ về làng quê luôn thường trực trong tâm trí ông nhưng rồi ” cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”. Cảm giác bàng hoàng, sững sờ đến tê dại cả người, và cả nỗi đau quặn thắt khiến ông “lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Có thể nói nhà văn Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của nhân vật thật tinh tế. Càng yêu làng bao nhiêu giờ đây, ông Hai càng đau xót, tủi hổ bấy nhiêu. Ông cứ “cúi gằm mặt xuống”. Phải chăng nỗi đau đớn nhất lúc này chính là ông không thể nhận mình là người con của làng chợ Dầu được?
Rời khỏi quán nước, về đến nhà, bộ dạng của ông lão thật tội nghiệp, ông đã tự rít lên vì không biết trút nỗi lòng vào đâu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ta có thể thấy những suy nghĩ, tâm trạng của ông chủ yếu được thể hiện qua hành động, lời nói và yếu tố miêu tả bên ngoài, có yếu tố độc thoại nội tâm nhưng không nhiều, điều đó hoàn toàn phù hợp với ông Hai- một lão nông chân quê.
Nỗi đau đớn dường như đã chuyển thành nỗi sợ hãi. Tâm trí ông như bị ám ảnh khiến ông cả ngày chỉ dám quanh quẩn trong nhà, ông trở nên nhạy cảm với những gì mà ông cho rằng có liên quan đên cái tin dữ kia: “cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà nín thít”. Lúc bị mụ chủ nhà đuổi, tâm can ông giằng xé với ý nghĩ: “hay là quay về làng”. Nước mất thì nhà tan, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…”. nhận thức được điều đó nên dù rất đau đớn, xong ông vẫn đưa ra quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Đây quả là một quyết định táo bạo, tiến bộ của người nông dân. Tình cảm của họ đã vượt qua lũy tre làng để đến với dân tộc, với cách mạng.
Những ngày sau đó, không có hay nói chính xác hơn là không biết phải tâm sự với ai, ông đành trò chuyện với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. Nhưng điều đặc biệt ở đây là cuộc nói chuyện nhắc tới làng chơ Dầu- ngôi làng mà chẳng phải ông đã “thù” đó sao. Có lẽ tâm trí ông vẫn ôm ấp dáng hình một ngôi làng tươi đẹp mà con tim từng hết mực yêu quý? Lời con nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với làng, với đất nước?
Đến khi tin làng chợ Dầu Việt gian theo giặc được cải chính, ông Hai phấn khởi vô cùng, ông lại đi khoe khắp nơi về làng, về ngôi nhà bị cháy của mình. Chi tiết tưởng như vô lí nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt. Đó là chứng cứ hùng hồn nhất cho việc làng ông đã chiến đấu kiên cường. Ông Hai đã quên đi vật chất riêng để hòa vào niềm vui chung của dân tộc. Giờ đây niềm tin của ông vào ngôi làng kháng chiến càng được khẳng định mạnh mẽ, vững vàng hơn. Và tình yêu làng quê- tình cảm truyền thống của người nông dân Việt Nam đã vang lên trong câu hát:
“Làng ta phong cảnh hửu tình
Dân cư giang khúc như hình con long”.
Thế nhưng chỉ ở người nông dân sau cách mạng tháng tám, tình yêu làng mới hòa quện sâu sắc, thống nhất với tình yêu đất nước, niềm tin lãnh tụ và ủng hộ cách mạng.
Nhân vật ông Hai để lại ấn tượng trong lòng người đọc bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào tình huống: ở nơi tản cư, ông Hai nghe tin làng mình theo giặc. Chính tình huống ấy bộc lộ rõ nội tâm của ông. Tình yêu làng bỗng trở nên mâu thuẫn với tình yêu đất nước, một tình cảm vốn là cội nguồn, một tình cảm tuy mới hình thành nhưng lại sâu nặng khiến cho ông không thể dứt bỏ. Cũng từ đây những suy nghĩ đa chiều được miêu tả rõ, góp phần thể hiện chủ đề truyện.
Truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công tình yêu làng, yêu nước mộc mạc chân thành nhưng sâu nặng của những người nông dân. Tác phẩm cũng nêu lên chuyển biến tích cực trong nhận thức của quần chúng cách mạng, thể hiện sự sáng tạo của nhà văn tài ba.
🔻 Xem thêm:
- Phân tích truyện ngắn làng của Kim Lân – Dàn ý chi tiết
- Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân
Chủ đề:Lòng tự hào về quê hương của mỗi con người, Quê hương có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi người, Quê hương là nơi chân ta có thể rời đi nhưng tim ta vẫn mãi ở đó là câu nói của ai, Trình bày suy nghĩ của ảnh chỉ về vai trò của quê hương trong sự hình thành nhân cách mỗi người, Từ nội dung của bài thơ chôn quê hãy nêu rõ vai trò của quê hương đối với mỗi người, Viết đoạn văn 5 7 câu nêu suy nghĩ của em về vai trò của quê hương đối với cuộc đời mỗi con người, Ý nghĩa của sự gắn kết giữa con người với quê hương, Ý nghĩa của việc thắp sáng quê hương trong cuộc sống mỗi người