
Ghi lại cảm xúc về vẻ đẹp mùa thu trong bài thơ “Thu” của Nguyễn Trọng Hoàn
THU
Trời trong xanh áo mới
Hương cốm gọi thu về
Vườn chín thơm hồng, bưởi
Hương dập dềnh bay xa.
Mùa thu về trong gió
Mùa thu về trong cây
Mật ngọt dâng sóng sánh
Ong, bướm mải mê say.
Đất ngỡ ngàng màu nắng
Sông ngỡ ngàng màu mây
Rộn ràng nghe tiếng trống
Bạn bè tay trong tay…
(Nguyễn Trọng Hoàn để lại…Nguyễn Trọng Hoàn, NXB Công an nhân dân, 2021, tr.310)
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: nêu tên bài thơ Thu, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn; đặt bài thơ vào khung cảnh mùa tự nhiên/thiên nhiên Việt Nam.
– Nêu cảm xúc khái quát: bản thân bị thu hút bởi sự trong trẻo, ấm áp và rộn ràng của mùa thu được nhà thơ khắc họa – một mùa vừa ngọt ngào vừa rộn ràng, vừa mộc mạc vừa tràn sức sống.
(Ví dụ câu mở bài ngắn gọn):
“Bài thơ Thu của Nguyễn Trọng Hoàn khắc họa một bức tranh mùa thu làng quê thân thuộc trong xanh, ngọt ngào và rộn ràng; đọc thơ, ta cảm nhận ngay niềm say mê, nỗi ngỡ ngàng và niềm háo hức của nhà thơ trước thiên nhiên và cuộc sống.”
II. Thân bài
1. Cảm xúc về vẻ đẹp mùa thu
a. Khổ thơ đầu: Vẻ đẹp thiên nhiên mộc mạc, trong trẻo
– Hình ảnh “trời trong xanh áo mới” gợi sự thanh khiết, tươi mới; so sánh áo mới làm bầu trời trở nên gần gũi, nhân hoá bầu trời như người khoác áo.
– “Hương cốm” và “vườn chín” đánh thức khứu giác – thơ có sức gợi của mùa, không chỉ hình ảnh mà còn mùi vị của thu.
– Từ láy “dập dềnh” tạo cảm giác chuyển động nhẹ nhàng, lãng đãng, lan tỏa.
– Cảm xúc cá nhân: Cảm giác an yên, ấm áp, muốn bước ra đồng vườn để hít thở mùi mùa; nhận ra sự thân thương, gần gũi của thiên nhiên làng quê.
– Ý nghĩa: Thiên nhiên mùa thu hiện lên dịu dàng, hàm súc, khiến con người dễ rung động và hoà mình vào nó.
b. Khổ thơ thứ 2: Sức sống và nhịp điệu của mùa thu (âm thanh, chuyển động, đời sống)
– Điệp ngữ “Mùa thu về” nhấn mạnh sự trở lại, nhịp điệu tuần hoàn của thiên nhiên.
– Hình ảnh “ong, bướm mải mê say” và “mật ngọt dâng sóng sánh” thể hiện sự nhộn nhịp, phong phú của đời sống tự nhiên trong thu.
– “Sóng sánh” là từ láy gợi độ sệt, ngọt, tăng tính xúc giác cho miêu tả.
– Cảm xúc cá nhân: Niềm vui vui tươi trước sức sống tràn đầy của thiên nhiên; cảm giác tràn đầy năng lượng, muốn chung vui cùng cảnh vật.
– Ý nghĩa: Mùa thu không chỉ yên ả mà còn là mùa sinh hoạt, nhộn nhịp; nhà thơ tôn vinh nhịp sống thiên nhiên và sự hoà hợp giữa cây cỏ – chim muông – con người.
c. Khổ thơ cuối: Mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người (kỷ niệm, cộng đồng, niềm háo hức)
– “Ngỡ ngàng” gợi trạng thái xúc động, ngạc nhiên trước sắc màu mới của đất và sông – thiên nhiên như cũng bừng tỉnh.
– “Tiếng trống”, “bạn bè tay trong tay” chuyển tâm cảnh từ thiên nhiên sang không khí lễ hội, cộng đồng (có thể liên tưởng khai trường, lễ hội thu).
– Liên kết giữa thiên nhiên và con người: thiên nhiên làm nền cho cảm xúc, kỷ niệm, và hoạt động xã hội.
– Cảm xúc cá nhân: Cảm thấy ấm áp, hoài niệm; nhớ đến những ngày sum họp, tiếng trống khai giảng, bạn bè – mùa thu trở thành mùa của ký ức và hy vọng.
– Ý nghĩa: Mùa thu là chiếc cầu nối giữa thiên nhiên và đời sống xã hội, giữa ký ức cá nhân và không khí cộng đồng.
2. Cảm xúc về nghệ thuật tiêu biểu của bài thơ
– Thể thơ, câu chữ ngắn gọn, mộc mạc (thể thơ năm chữ) – phù hợp với chủ đề làng quê, giản dị nhưng giàu hình ảnh.
– Nhịp điệu 3/2, 2/3 và cách dùng từ láy (dập dềnh, sóng sánh, ngỡ ngàng, rộn ràng) tạo âm hưởng vui tươi, du dương.
– Biện pháp tu từ: nhân hoá (trời “áo mới”), điệp ngữ (“Mùa thu về”), so sánh, từ láy. Tất cả góp phần khuếch đại cảm xúc.
– Cảm xúc của tác giả: Rõ ràng là say mê, trân trọng, ngỡ ngàng và rộn ràng – thái độ yêu đời, lạc quan.
– Cảm xúc của người đọc (cá nhân): Bị gợi xúc, muốn lưu giữ khoảnh khắc; cảm thấy yêu quê hương, yêu mùa thu hơn.
III. Kết bài
– Tổng kết: Khẳng định lại vẻ đẹp đa dạng của mùa thu trong bài: vừa tinh khôi, vừa ngọt ngào, vừa rộn ràng. Bài thơ vừa là bức tranh thiên nhiên vừa là bức tranh tình cảm, cộng đồng.
– Cảm nhận cuối cùng: Bài thơ giúp ta thấy rằng mùa thu không chỉ là biến đổi khí hậu mà còn là khoảnh khắc giao hoà giữa thiên nhiên và con người – đánh thức ký ức, khơi dậy niềm vui sống.
– Liên hệ mở rộng (tuỳ chọn): Nêu cảm xúc cá nhân/ kỷ niệm bản thân với mùa thu, hoặc khẳng định giá trị của việc trân trọng những vẻ đẹp giản dị trong đời sống.
Bài văn 600 chữ ghi lại cảm xúc về vẻ đẹp mùa thu trong bài thơ “Thu” của Nguyễn Trọng Hoàn
Mùa thu từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng quen thuộc trong thi ca Việt Nam. Thu về mang theo bao đổi thay dịu dàng của trời đất, đánh thức những cảm xúc tinh tế nhất trong lòng người. Bài thơ “Thu” của Nguyễn Trọng Hoàn đã gợi lên vẻ đẹp trong trẻo, ngọt ngào và rộn ràng của mùa thu quê hương, đồng thời thể hiện niềm yêu đời, yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.
Ngay từ khổ thơ đầu, bức tranh mùa thu đã hiện ra thật tươi sáng và gần gũi.
“Trời trong xanh áo mới
Hương cốm gọi thu về
Vườn chín thơm hồng, bưởi
Hương dập dềnh bay xa.”
Chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã khơi gợi được trọn vẹn hương sắc của thu. Màu trời xanh trong gợi sự thanh khiết, tươi tắn như vừa khoác lên mình “áo mới”. Hương cốm, hồng chín, bưởi thơm là những mùi hương thân thuộc của làng quê, đánh thức vị giác và ký ức của người đọc. Cách dùng từ láy “dập dềnh” khiến hương thu như đang lan tỏa nhẹ nhàng trong gió, tạo cảm giác bình yên và êm dịu. Trước bức tranh ấy, người đọc như cũng được sống trong không gian thanh mát, ngọt ngào của những ngày thu dịu nắng.
Đến khổ thơ thứ hai, mùa thu hiện lên không chỉ bằng sắc và hương mà còn bằng nhịp sống rộn ràng, tràn đầy sinh khí:
“Mùa thu về trong gió
Mùa thu về trong cây
Mật ngọt dâng sóng sánh
Ong, bướm mải mê say.”
Điệp ngữ “mùa thu về” được lặp lại hai lần như một lời reo vui, nhấn mạnh nhịp điệu tuần hoàn của thời gian. Thiên nhiên được nhân hóa, như cũng có linh hồn, có sự chuyển động và cảm xúc riêng. Mật ngọt “sóng sánh” — một từ láy gợi cảm giác mềm mại, sánh đặc, khiến người đọc như cảm nhận được vị ngọt ngào của thu đang dâng đầy. Hình ảnh ong bướm “mải mê say” góp phần làm bức tranh thêm sinh động, thể hiện sức sống và sự gắn kết hài hòa giữa muôn loài trong thiên nhiên. Mùa thu, trong con mắt của Nguyễn Trọng Hoàn, không tĩnh lặng mà là một mùa của chuyển động, của niềm vui và sự tràn đầy.
Khổ thơ cuối mở ra một không gian tràn ngập ánh sáng và âm thanh của con người:
“Đất ngỡ ngàng màu nắng
Sông ngỡ ngàng màu mây
Rộn ràng nghe tiếng trống
Bạn bè tay trong tay…”
Từ “ngỡ ngàng” được lặp lại hai lần tạo nên cảm giác xúc động, bất ngờ của thiên nhiên trước sắc nắng, sắc mây khi thu đến. Đặc biệt, tiếng trống và hình ảnh “bạn bè tay trong tay” đã đưa ta trở về với không khí rộn ràng của ngày tựu trường, một dấu ấn không thể thiếu của mùa thu. Như vậy, thiên nhiên trong bài thơ không chỉ có cảnh sắc mà còn có con người, có niềm vui, tiếng cười, có tình bạn và kỷ niệm tuổi thơ. Mùa thu trở thành biểu tượng của niềm hân hoan, của sự khởi đầu và đoàn tụ.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ ngắn gọn, nhịp 3/2 hoặc 2/3 linh hoạt, tạo âm điệu trong sáng, nhẹ nhàng. Hệ thống từ láy “dập dềnh”, “sóng sánh”, “ngỡ ngàng”, “rộn ràng” giàu nhạc tính, góp phần khắc họa sinh động bức tranh thu. Các biện pháp nhân hóa, điệp ngữ, so sánh được vận dụng khéo léo, khiến thiên nhiên hiện lên vừa chân thực vừa tràn đầy cảm xúc.
Bài thơ “Thu” của Nguyễn Trọng Hoàn không chỉ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà còn gửi gắm tình yêu tha thiết với quê hương, với cuộc sống. Mỗi vần thơ là một nốt nhạc trong trẻo của tâm hồn yêu đời, yêu người. Đọc bài thơ, ta như được sống lại những ngày thu rộn ràng của tuổi thơ, nơi tiếng trống khai trường vang lên giữa trời trong xanh, nơi lòng người rộn ràng mà bình yên đến lạ.
Đoạn văn 300 chữ
Mùa thu là mùa của sắc vàng, của hương cốm mới, của những ngày trong trẻo và dịu dàng. Trong bài thơ “Thu”, Nguyễn Trọng Hoàn đã khắc họa một bức tranh mùa thu quê hương vừa mộc mạc, vừa tràn đầy sức sống, khiến người đọc như được đắm mình trong vẻ đẹp bình yên mà rộn ràng ấy.
Ngay từ khổ thơ đầu, hình ảnh “Trời trong xanh áo mới / Hương cốm gọi thu về” đã gợi ra bầu trời thu trong trẻo, khoác lên mình chiếc áo tươi mới. Cùng với đó là “vườn chín thơm hồng, bưởi” và “hương dập dềnh bay xa”, những mùi hương quen thuộc của làng quê, khiến ta cảm nhận rõ sự ngọt ngào, thanh mát của mùa thu đang lan tỏa khắp không gian.
Khổ thơ thứ hai mở ra nhịp sống sinh động của thiên nhiên: “Mùa thu về trong gió / Mùa thu về trong cây”. Điệp ngữ “mùa thu về” như lời reo vui, thể hiện niềm hân hoan của thiên nhiên và lòng người. Cảnh vật hiện lên với “mật ngọt dâng sóng sánh / ong, bướm mải mê say” vừa đẹp vừa tràn đầy năng lượng.
Khổ cuối là âm vang của con người giữa thiên nhiên: “Rộn ràng nghe tiếng trống / Bạn bè tay trong tay…” Tiếng trống ấy gợi nhắc đến ngày tựu trường, đến niềm vui sum họp và khởi đầu mới.
Bằng thể thơ năm chữ nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị mà giàu hình ảnh, Nguyễn Trọng Hoàn đã vẽ nên một mùa thu thân thương, trong trẻo và đầy sức sống. Đọc bài thơ, ta thấy lòng mình cũng trở nên dịu dàng, yêu hơn những điều giản dị quanh mình.

