
Phân tích bài thơ “Nhớ mẹ năm lụt” của Huy Cận
I. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm cùng bài thơ.
II. Thân bài
* Bốn câu thơ đầu (Năm ấy lụt to tận mái nhà…Tay mẹ trùm con, tựa mẹ già).
=> Bốn câu thơ đã gợi nhớ lại những kỉ niệm mùa lũ năm ấy của hai mẹ con khi không có bố ở gần và sự khắc nghiệt của bão lũ.
* Bốn câu thơ tiếp (Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc…Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con).
=> Tình yêu thương và sự hy sinh cao cả của người mẹ giành cho con qua hành động và suy nghĩ.
* Bốn câu thơ tiếp (Gọi với láng giềng, lời mẹ dặn…Đáp lại từ xa một tiếng “ời”).
=> Vì không có trụ cột vững chắc là bố bên cạnh nên mẹ rất vất vả, vừa là mẹ vừa là bố che chở, bảo vệ con. Tuy nhiên, sức phụ nữ yêu đuối vốn không đủ để chống chọi nổi sự dũng mãnh, khủng bố của bão tố nên mẹ đành nhờ sự trợ giúp của những người xung quanh với hy vọng là con được sống tốt.
* Bốn câu thơ còn lại (Nước, nước… lạnh tê như số phận…Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu).
=> Bốn câu thơ đã cho thấy sự kiên cường của người mẹ, có thể so sánh được với cả dòng nước sâu.
III. Kết bài
– Nêu cảm xúc của mình về bài thơ.
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ “Nhớ mẹ năm lụt”
Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam, có một mạch nguồn thiêng liêng không bao giờ vơi cạn đó là tình mẹ. Tình mẹ như dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn, như ngọn lửa ấm xua tan giá lạnh cuộc đời. Mỗi nhà thơ, bằng cảm xúc và ký ức riêng, đều gửi vào thơ hình bóng mẹ, giản dị mà vĩ đại. Trong số ấy, bài thơ “Nhớ mẹ năm lụt” của Huy Cận đã chạm đến trái tim người đọc bằng những vần thơ chân thực, thấm đẫm tình thương và lòng biết ơn sâu sắc. Bài thơ không chỉ gợi lại một mùa lũ dữ, mà còn khắc họa sáng ngời hình ảnh người mẹ Việt Nam tảo tần, kiên cường, luôn dang rộng vòng tay che chở con giữa gian nan sóng gió cuộc đời.
Bài thơ mở ra bằng khung cảnh dữ dội của thiên tai, một cơn lũ lớn tràn qua, dâng tận mái nhà:
Năm ấy lụt to tận mái nhà
Mẹ con lên chạn – Bố đi xa
Bốn bề nước réo, nghe ghê lạnh
Tay mẹ trùm con, tựa mẹ gà…
Chỉ vài câu thơ mà hiện lên cả một bức tranh đời sống khắc nghiệt của miền Trung trong mùa nước lớn. Giữa biển nước mênh mông, người mẹ cùng đứa con nhỏ co ro trên chạn, không có người đàn ông bên cạnh, phải tự mình chống chọi với thiên nhiên hung dữ. Trong cảnh nước réo lạnh rùng mình ấy, “tay mẹ trùm con” là hình ảnh xúc động biết bao. Bàn tay mẹ tuy yếu mềm nhưng lại là điểm tựa vững vàng nhất giữa bão tố cuộc đời. Hình ảnh so sánh “tựa mẹ gà” thật đắt, gợi nên bản năng che chở thiêng liêng của tình mẫu tử, như con gà mẹ dang đôi cánh yếu ớt che bầy con trước cơn mưa nặng hạt. Ẩn trong đó là cả một trời yêu thương, cả một đời hy sinh âm thầm của người mẹ.
Đến khổ thơ sau, cảm xúc càng lắng sâu, chạm đến tận cùng trái tim người đọc:
Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc
Thương con lúc ấy biết gì hơn?
Nước mà cao nữa không bè thúng
Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con.
Chỉ bốn câu thơ, nhưng là bốn nhát cắt đầy thương xót vào tâm can. “Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc” – một chi tiết nhỏ mà nói được cả sức chịu đựng lớn lao. Người mẹ không cho phép mình khóc, bởi nước mắt lúc này chỉ khiến đứa con thêm sợ hãi. Trong lòng mẹ dâng đầy nỗi lo: nếu nước còn cao nữa, nếu không còn đường sống… thì mẹ vẫn chọn ôm lấy con, cùng con đi đến tận cùng sinh tử. Tình thương ấy vừa dữ dội, vừa dịu dàng, vừa tuyệt vọng lại vừa kiên cường như chính trái tim người mẹ trong bao thế hệ Việt Nam từng gồng mình qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua bão tố.
Giữa cảnh nước trắng xóa mênh mông, tình người lại được khơi dậy trong những tiếng gọi, tiếng đáp đầy cảm động:
Gọi với láng giềng, lời mẹ dặn
“Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!”
Tiếng dờn giữa nước mênh mông trắng
Đáp lại từ xa một tiếng “ời”.
Tiếng kêu của mẹ không chỉ là tiếng cầu cứu, mà còn là tiếng nấc nghẹn của tình mẫu tử. Trong giây phút sinh tử ấy, mẹ chẳng nghĩ đến mình, chỉ lo cho con được sống. Câu nói giản dị “Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!” làm người đọc bàng hoàng xúc động. Và rồi, giữa không gian mịt mù nước trắng, vọng lại “một tiếng ời” ngắn ngủi nhưng ấm áp, như một tia hy vọng mỏng manh giữa tuyệt vọng. Tình làng nghĩa xóm trong hoạn nạn càng làm nổi bật tấm lòng vị tha và nhân hậu của con người Việt Nam.
Khổ thơ cuối là điểm lắng sâu và cũng là nơi kết tinh tư tưởng của toàn bài:
Nước, nước… lạnh tê như số phận
Lắt lay còn ngọn mấy hàng cau
Nhưng mà mẹ thức ngồi canh chạn
Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu.
Dòng nước lũ tàn nhẫn không chỉ cuốn trôi bao mái nhà, bao kỷ niệm, mà còn như ẩn dụ cho số phận lam lũ, khổ cực của mẹ. Cái lạnh của nước thấm vào da thịt, nhưng cái lạnh của đời người nghèo còn thấm sâu hơn vào tim. Giữa cơn lũ, mẹ vẫn “thức ngồi canh chạn”, thức không chỉ vì lo sợ, mà vì thương con. “Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu” – một hình ảnh đầy ám ảnh. Đó là đôi mắt của sự tỉnh táo, của sức mạnh tinh thần phi thường, của tình thương không gì có thể dập tắt. Nước sâu nhưng lòng mẹ còn sâu hơn, nước lạnh nhưng tình mẹ còn ấm hơn muôn phần.
Và rồi, khi lũ qua đi, những mất mát vẫn còn in dấu trong từng chi tiết nhỏ bé của đời thường:
Năm ấy vườn cau long mấy gốc
Rầy đi một dạo, trái cau còi
Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc
Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi.
Thiên nhiên có thể hồi sinh, nhưng những dấu tích của gian khổ vẫn hằn sâu trong dáng hình mẹ. Mái tóc mẹ thêm bạc, đôi vai mẹ thêm gầy, đó là cái giá của năm tháng, của sự hy sinh âm thầm mà cao cả. Hình ảnh “mảnh nước soi” như một tấm gương của ký ức, nơi hiện lên bóng dáng người mẹ vĩ đại giữa bao đắng cay đời người.
Bằng giọng thơ giản dị, mộc mạc mà thấm thía, Huy Cận đã tái hiện một ký ức đau thương nhưng chan chứa tình người. Bài thơ không chỉ kể lại một câu chuyện riêng mà còn nói hộ nỗi lòng của biết bao người con từng lớn lên trong nghèo khó, từng được mẹ chở che qua những “mùa lũ” của đời mình. Qua đó, người đọc nhận ra vẻ đẹp bất diệt của tình mẫu tử: âm thầm mà mãnh liệt, nhỏ bé mà vĩ đại.
“Nhớ mẹ năm lụt” khép lại nhưng dư âm còn vang mãi, không chỉ là nỗi nhớ về một mùa lũ xa xưa, mà là lời nhắc nhở về ân nghĩa sinh thành, về sức mạnh yêu thương của người mẹ Việt Nam. Đọc bài thơ, ta như nghe tiếng gọi thầm trong lòng: hãy biết trân quý, biết yêu thương mẹ khi mẹ còn bên cạnh, bởi giữa những cơn “lụt đời”, mẹ vẫn luôn là bến bờ bình yên nhất.
Bài làm tham khảo 2
Văn học bật ra từ những cảm xúc và hoài niệm của người nghệ sĩ, từ cõi lòng tinh tế đến nhạy cảm mong manh, để rồi nhìn thấu nỗi đau thực tại, để rồi một đời trăn trở, một đời băn khoăn. Thật vậy, thi ca muôn đời là nơi bộc lộ những trở trăn, những nghĩ suy thổn thức của người nghệ sĩ trước cuộc đời, cũng như nỗi niềm muôn thuở với văn thơ kéo dài qua thời gian. Nói đến đây làm ta nghĩ đến Huy Cận. Nhắc đến Huy Cận là nhớ đến nhà thơ lớn trong phong trào “Thơ mới” trước năm 1945 với chất thơ giàu triết lí và thấm thía bao nỗi buồn. Nhưng sau Cách mạng, thơ của ông dào dạt niềm vui, nhất là khi ông nói về cuộc sống mới, con người mới. Cả cuộc đời cầm bút của mình, nhà thơ đã để lại cho đời nhiều kiệt tác làm say đắm lòng người, tiêu biểu là “Nhớ mẹ năm lụt”. Đến với tác phẩm, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi nhớ của tác giả gắn liền với những ngày tháng lũ lụt năm xưa. Qua đó, người đọc sẽ cảm nhận hết thảy tình yêu thương của tình mẫu tử. Đến nay, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao biến đổi của lòng người nhưng bạn đọc vẫn luôn khao khát muốn tìm hiểu sâu hơn về tình mẫu tử thiêng liêng trong bài thơ.
Mỗi tác phẩm giống như một đứa con đã được tác giả hoài công thai nghén. Do đó, người nghệ sĩ nào cũng muốn đặt cho đứa con tinh thần của mình một cái tên hay nhất. Không phải ngẫu nhiên mà Huy Cận lại đặt tên cho tác phẩm của mình là “Nhớ mẹ năm lụt”. Trước hết, đây là một cái tên súc tích, thân thuộc mà giàu ý nghĩa. Nhan đề trong tác phẩm này phản ánh khía cạnh nội dung sâu sắc về tình yêu thương của người con trai đối với mẹ trong trận lụt kinh hoàng. Bằng cách bộc lộ cảm xúc ngay từ nhan đề, tác giả đã khắc sâu vào trái tim người đọc rằng tình yêu thương và sự quan tâm của mẹ là vô bờ bến và không thể thay thế.
“ Năm ấy lụt to tận mái nhà
Mẹ con lên chạn – Bố đi xa”
Nhan đề của tác phẩm đã khắc hoạ rõ nét về một nỗi nhớ, một hồi ức vẫn cứ luôn hiện hữu trong tiềm thức. “Năm ấy” trong câu thơ: “Năm ấy lụt to tận mái nhà”, một mốc thời gian không xác định chỉ nhớ đó là khoảng thời gian kinh hoàng của tuổi thơ mùa nước lũ về, chỉ có hai mẹ con nương tựa. Vào cái năm hãi hùng ấy, khi nước dâng lũ cao lên đến tận mái nhà, khi người đàn ông – điểm tựa vững chắc của gia đình vắng mặt, thì lúc này đây, mẹ trở thành điểm tựa duy nhất, là đốm lửa hồng sưởi ấm cho đứa con trong đêm mưa lạnh giá. Trước tình thế nguy cấp là nước lũ ngày một dâng cao, mẹ đã chạy cật lực tìm nơi trú ẩn, nhưng chẳng còn chỗ nào tránh được trừ “chạn” chật hẹp, lỏng lẻo. Trong cơn lụt toàn bộ khung cảnh xung quanh bị nhấn chìm vào trong nước, chỉ còn thấy một màu trắng xóa, độc giả càng cảm nhận rõ hơn thứ âm thanh dữ tợn của con lũ thông qua biện pháp tu từ nhân hóa được Huy Cận sử dụng một cách tinh tế:
“Bốn bề nước réo, nghe ghê lạnh”
Nước lũ tựa như một sinh thể có linh hồn, nó cảm nhận được nỗi sợ hãi, lắng nghe được tiếng gào thét của muôn loài trong vô vọng nên nó càng hung dữ, tàn bạo hơn bao giờ hết. Khi đối diện với hiểm nguy, với sự sống mỏng manh thì trong đầu mẹ lúc đó chỉ có con, mong sao con mình vẫn được bình an. Chính vì thế mà “tay mẹ” vẫn “trùm con”, tựa như mẹ gà vừa che chở, vừa là nơi an toàn cho đứa con bé nhỏ, vừa để cho con không phải chứng kiến cảnh tượng đau thương. Bức tranh về tình yêu thương và sự hy sinh cao cả của người mẹ đối với con được vẽ nên một cách sâu sắc, hình ảnh chú gà con chui rúc vào lòng mẹ làm cho người đọc hiểu được sự liên kết mạnh mẽ giữa mẹ và con, qua đó thấu hiểu được tình yêu thương sâu nặng và sự hy sinh vô điều kiện của người mẹ. Trong bất kì hoàn cảnh nào, dẫu có sợ hãi nhưng khi bên cạnh con, nỗi sợ hãi ấy dường như không đánh gục được mẹ, hành động “cắn bầm môi” của mẹ lại càng cho thấy sự kiên cường, không để con biết rằng mình cũng cảm thấy sợ hãi.
“Thương con lúc ấy biết gì hơn?”
Mẹ thương con nhưng không biết làm thế nào, đời mẹ đã cơ cực, đến đời con vẫn chưa hết khổ. Nhìn bốn bề là nước lũ ngày càng dâng cao, mẹ lo sợ đến tột độ: “Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con”. Những câu thơ giống như tiếng kêu thảm thiết của mẹ vì thương con, vì lo cho con. Nhà thơ như đang sống lại với những ký ức đau thương ấy, người đọc cũng đồng cảm, xót xa với hoàn cảnh của hai mẹ con. Trước cơn lụt dữ, nếu nước càng cao không còn “bè thúng”, mẹ sợ rằng con sẽ bị cuốn trôi, và nỗi lo sợ đó ảnh hưởng đến từng giấc ngủ của mẹ. Vì thế mẹ gọi hàng xóm, lời mẹ dặn “Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!”, trong khi âm thanh vang vọng từ xa đáp lại chỉ là một tiếng “ời”.
“ Nước, nước… lạnh tê như số phận
Lắt lay còn ngọn mấy hàng cau”
Câu thơ đã tạo ra một bức tranh đầy ám ảnh về tình hình khắc nghiệt của cuộc sống trong cơn lụt lội. Phép điệp từ “nước” được lặp lại hai lần trên một dòng thơ, tượng trưng cho sự đe dọa và nỗi ám ảnh khôn cùng khi nước lụt đã phủ kín mọi thứ, nhấn chìm tất cả sinh linh. Ngoài ra, hình ảnh những “ngọn” cây cau “lắt lay” trong dòng nước mênh mông còn biểu hiện sự mất mát và khó khăn của cuộc sống dưới tác động của thiên tai. Tuy nhiên, đồng thời cũng là biểu tượng cho sự kiên nhẫn và hy vọng, khi những cây cau xanh mướt, cao vút ngày nào giờ đang tìm cách vượt qua mọi khó khăn để giữ lấy sự sống. Cơn lũ hung bạo và tàn ác cũng không thể nào nhấn chìm được tình yêu thương của mẹ dành cho con, ôm con trong lòng, bảo vệ con, canh cho con ngủ. Dù buồn ngủ nhưng mẹ vẫn thức ngồi canh chạn suốt đêm, mắt mẹ “trừng sâu” hơn cả “nước sâu”, đôi mắt ấy đang tập trung cao độ dõi theo mực nước dưới chân “chạy”.
“Vậy đó mẹ ơi, đời của mẹ
Đường trơn bấu đất mẹ kiên gan
Nuôi con lớn giữa bao cay cực
Nước lụt đời lên mẹ cắn răng.”
Quay về với thực tại, khi suy ngẫm về cuộc đời cơ cực của mẹ, tác giả không thể không cảm thông và thấu hiểu những gì mẹ đã trải qua. Trong khổ thơ này, nhà thơ đã tận dụng từ ngôn từ đơn giản nhưng rất sâu sắc để diễn đạt tình cảm của mình đối với người mẹ. Tâm trạng của ông rõ ràng hiện lên từ dòng đầu tiên với lời gọi tình cảm “Vậy đó mẹ ơi”, điều này đã giúp Huy Cận bày tỏ được lòng kính trọng và nhớ thương sâu sắc đối với người mẹ thân thương của mình. Tiếp đó, hình ảnh “đường trơn bấu đất” được dùng để mô tả cuộc đời gian khổ và khó khăn của mẹ, nhưng đồng thời cũng tôn vinh sự kiên gan và mạnh mẽ của mẹ khi đối mặt với vô vàn những khó khăn. Điều đáng chú ý nữa là sự hy sinh vô điều kiện của mẹ, cụ thể thông qua việc “nuôi con lớn giữa bao cay cực” đã được tác giả đề cao và tôn trọng. Cuối cùng, hình ảnh “nước lụt đời lên mẹ cắn răng” tượng trưng cho những gánh nặng và khó khăn mà mẹ phải đối mặt, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự kiên trì và quyết tâm của mẹ khi đối diện với mọi thử thách.
“Năm ấy vườn cau long mấy gốc
Rầy đi một dạo, trái cau còi
Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc
Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi.”
Bằng nhãn quan tinh tường khi đứng trước những biến chuyển tế vi của vạn vật, thi sĩ đã khéo léo họa nên bức tranh về
sự biến đổi của cuộc sống và thời gian. Ban đầu, vườn cau được mô tả là “long mấy gốc”, tượng trưng cho thời kỳ hạnh phúc và ổn định của quá khứ. Tuy nhiên, hình ảnh “rầy đi một dạo, trái cau còi” lại cho thấy sự suy tàn và mất mát khi cuộc sống bị ảnh hưởng bởi sự hủy hoại của thời gian. Mặc dù vậy nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở việc miêu tả sự suy thoái, mà còn tập trung vào hình ảnh của mẹ, người phụ nữ già nua với “chùm bạc trên đầu tóc”. Hình ảnh này được ẩn dụ để biểu tượng cho sự trôi chảy của thời gian và sự đổi mới không ngừng của cuộc sống.
Mỗi sợi tóc bạc trên đầu mẹ là một dấu hiệu rõ ràng của tuổi già đến, làm nhấn mạnh về quy luật của tạo hóa rằng con người không thể tránh khỏi sự thay đổi, phải chấp nhận những quy luật tự nhiên của sự phát triển và tuổi già. ” Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi”, một khi cuộc sống trôi qua như dòng nước lụt, những mảnh nước soi vương còn lại là biểu tượng cho ký ức và nỗi đau trong quá khứ, nhưng cũng là sự kiên trì và hy vọng về tương lai. Tất thảy những hình ảnh này kết hợp lại với nhau đã tạo nên một bức tranh sâu sắc và vô cùng cảm động về sự thay đổi của cuộc sống, cũng như về tình mẫu tử không điều kiện bức tranh của sự thương cảm, xót xa và trân quý của người con đối với mẹ.
Trong bài thơ “Nhớ mẹ năm lụt” của Huy Cận, ngôn từ văn chương được tác giả sử dụng một cách tinh tế và sâu sắc, góp phần gửi gắm những cảm xúc chân thành và sâu lắng của ông đối với người đọc. Giọng điệu của bài thơ toát lên sự xót xa và thương cảm, hình ảnh bình dị của cuộc sống đời thường được tái hiện một cách sống động và đầy chân thực. Ngoài ra, bài thơ còn sử dụng các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh và câu hỏi tu từ để làm nổi bật những cảm xúc, suy tư của thi sĩ về tình yêu thư và hy sinh của người mẹ tro hoàn cảnh khó khăn.
Bằng nghệ thuật xây dựng hình ảnh nhiều cảm xúc, sử dụng thể thơ bảy chữ và các biện pháp tu từ tăng tính gợi hình, gợi cảm, Huy Cận đã thể hiện thành công nỗi nhớ khắc khoải của người con về quá khứ đầy cơ cực khi ở bên mẹ mùa lũ. Đọc bài thơ “Nhớ mẹ năm lụt” của Huy Cận, tôi không chỉ nhớ về mẹ mình mà còn nhận ra giá trị to lớn của tình mẫu tử và sự hy sinh vô điều kiện của người mẹ. Ngoài ra bài thơ còn thôi thúc tôi thêm trân trọng những gì đang có và đã có được khi ở bên mẹ. Tôi nhận ra rằng, trong những lúc gian khổ và khó khăn, mẹ đã luôn là người ở bên, che chở và động viên tôi vượt qua mọi thử thách. Chính điều đó mà tôi cảm thấy biết ơn và trân trọng hơn về tình yêu và sự hi sinh của mẹ, cũng như thêm cảm thông và thấu hiểu cho những mảnh đời không được mẹ ở bên chăm sóc và vỗ về. Bài thơ còn nâng cao nhận thức của tôi về sự tàn khốc của thiên nhiên và hiện thực cuộc sống của con người trước những biến động bất thường của thời tiết. Tôi nhận ra rằng, để tồn tại và tiếp tục sống, con người cần phải đề phòng và có bản lĩnh để đối mặt với những thách thức mà thiên nhiên đặt ra. “Nhớ mẹ năm lụt” quả là một giọt nước trong biển cả, một nét đơn sơ nhỏ bé giữa những thành tựu văn học. Nhưng dẫu hòa tan trong đại dương mênh mông, tác phẩm vẫn mặn mà nồng thắm, âm vang nhịp đập và sống mãi trong lòng bạn đọc…
Chủ đề:Cảm nhận về bài thơ Nhớ mẹ năm lụt, Hoàn cảnh sáng tác Nhớ mẹ năm lụt, Nghệ thuật điệp từ nước được sử dụng trong đoạn thơ Nhớ mẹ năm lụt có đặc điểm và tác dụng gì, Nhan đề Nhớ mẹ năm lụt phản ánh khía cạnh nội dung nào của tác phẩm, Nhớ mẹ năm lụt, Nhớ mẹ năm lụt nghị luận, Nhớ mẹ năm lụt nhân vật trữ tình, Nội dung bài thơ Nhớ mẹ năm lụt

