Chị em Thúy Kiều
CHỊ EM THÚY KIỂU
(Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du)
- KIẾN THỨC CƠ BẢN
- Vị trí đoạn trích
Nằm ở phần đầu tác phẩm Truyện Kiều, phần gặp gỡ và đính ước.
- Bố cục: Bốn phần
– Phần một: Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều
– Phần hai:4 câu tiếp Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân
– Phần ba: 12 câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều
– Phần bốn: 4 câu cuối: Nhận xét chung và phẩm hạn của hai chị em
- Nghệ thuật, nội dung
* Nghệ thuật:
– Bút pháp ước lệ tượng trưng tạo được sức gợi.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế: xây dựng được những bức chân dung đa dạn linh hoạt, thu hút.
– Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là lựa chọn những từ ngữ có giá tri gợi tả cao.
* Nôi dung
Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của hai chị em Thúy Kiều và dự cảm về kiếp người tài hoa, bạc bệnh qua cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du.
II, Đọc – hiểu văn bản
1. Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều (bốn câu đầu). Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, cổ điển để giới thiệu về lai lịch, vị trí trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị em:
“Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” -Lai lịch: Họ là hai người con gái đầu trong gia đình họ Vương -Vị trí trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em -Vẻ đẹp của hai chị em + “Mai cốt cách”: Cốt cách thì thanh cao như hoa mai. Đó là một loài hoa mà sắc thì rực rỡ, hương thì quý phái + “Tuyết tinh thần”: Phong thái, tinh thần thì trong trắng, tinh khiết như hoa tuyết. *Nhịp điệu 4/4, 3/3 ở câu thơ thứ hai, nhịp nhàng, đối xứng, làm nổi bật được vẻ đẹp đến độ hoàn mĩ của cả hai chị em. Tác giả sử dụng lời bình để khép lại bốn câu thơ đầu: “Mỗi người một vẻ”, cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người. “Mười phân vẹn mười”, đã tô đậm được vẻ đẹp đến độ toàn diện, hoàn hảo của hai chị em. Lời giới thiệu vô cùng ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho chúng ta nhiều thông tin phong phú và những ấn tượng đậm nét nhất về vẻ đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, cũng bộc lộ được cảm hứng ca ngợi cái tài hoa, nhan sắc của con người qua nghệ thuật điêu luyện, tài hoa của Nguyễn Du |
2, Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân (bốn câu tiếp)
Chỉ bằng bốn câu thơ, Nguyễn Du đã tả một cách đầy đủ, trọn vẹn những đặc điểm của nhân vật Thúy Vân: “Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngoài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.” – Câu thơ đầu tiên giới thiệu khái quát phong thái của Thúy Vân + Từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người miêu tả + Từ “trang trọng” cho thấy sự xuất hiện của nhân vật Thúy Vân với vẻ đẹp mang phong thái đoan trang, cao sang, quý phái Gợi ấn tượng tốt đẹp về một người phụ nữ trong khuôn khổ, lễ giáo của xã hội phong kiến Tiếp đó, tác giả miêu tả một cách chi tiết, trọn vẹn bức chân dung tuyệt đẹp của nhân vật Thúy Vân qua bút pháp ước lệ tượng trưng kết hợp thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê và đi kèm những từ ngữ giàu sức gợi: + Hình ảnh ẩn dụ: “khuôn trăng đầy đặn” đã vẽ nên một khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như mặt trăng; “nét ngài nở nang” gợi tả một đôi long mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung của Vân. + Hình ảnh nhân hóa: “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười tươi tắn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà; “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” đã gợi tả mái tóc óng ả, nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. + Những từ ngữ giàu sức gợi: “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”làm nổi bật, nhấn mạnh vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, quý phái của Thúy Vân + Vẻ đẹp đoan trang của Thúy Vân được so sánh với những hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết. -Nguyễn Du đã sử dụng rất có chọn lọc hai động từ “thua” và “nhường”. “Mây” và “ tuyết” là của thiên nhiên, tạo hóa, hay đó còn là cả một xã hội phong kiến. Và với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong khuôn khổ của xã hội phong kiến, thì dẫu Vân có đẹp hơn những cái đẹp nhất của thiên nhiên thì nàng vẫn được đón nhận, bao bọc và yêu thương. -Đặc biệt. từ bức chân dung ngoại hình của Thúy Vân, ta thấy được tính cách và số phận của nàng: tính cách rất trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang phúc hậu. Đó là hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nó dự đoán một số phận, một tương lai êm ấm và bình lặng đang chờ đón nàng => Bằng bút pháp cổ điển ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân dung của nhân vật Thúy Vân để từ đó gợi cho người đọc thấy được tính cách và số phận của nàng.
|
3, Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều (mười hai câu tiếp)
Nếu như miêu tả bức chân dung của Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ dùng có bốn câu thì đến Thúy Kiều ông dùng đến mười hai câu.Chứng tỏ, tác giả đã ưu ái, dùng nhiều bút lực và sự yêu mến đặc biệt cho nhân vật này. Sự yêu mến đó càng được khẳng định khi Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật đòn bẩy một cách tài tình: Ông miêu tả nhân vật Thúy Vân trước như một tuyệt thế giai nhân để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn” Từ “càng” đứng trước từ láy liên tiếp: “sắc sảo”, “mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về tâm hồn của Thúy Kiều. ->Không tả một cách cụ thể, nhưng Nguyễn Du đã khắc sâu trong tâm trí người đọc một ấn tượng sâu sắc vẻ đẹp vượt trội của Thúy Kiều. Lỗi miêu tả giúp tác giả tránh được sự trùng lặp nhàm chán và phát huy được trí tưởng tượng của độc giả. Đây chính là sự tài hoa và tài tình của Nguyễn Du. a, Vẻ đẹp nhan sắc: Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhấn”, tức là vẽ hồn chân dung bằng những hình ảnh mang tính ước lệ: “Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoahen thua thắm liễu hờn kém xanh” + “Làn thu thủy” đó là đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo như làn nước mùa thu. + “Nét xuân sơn” đó là đôi lông mày thanh tú, xinh đẹp như dáng núi mùa xuân. ->Không cần phải nhiều nét, nhưng bức chân của nhân vật Thúy Kiều vẫn hiện lên với những gì hoàn mĩ nhất. Đôi mắt, nó không chỉ mang vẻ đẹp bên ngoài mà đó còn là cửa sổ thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó cũng chính là cách tả truyền thống trong văn học trung đại; nét đậm đan xen với nét nhạt, chỗ tỉ mỉ, chỗ chấm phá. Hình ảnh nhân hóa “hoa ghen” và “liễu hờn” thể hiện thái độ của thiên nhiên trước vẻ đẹp của Kiều. Ông không tả trực tiếp vẻ đẹp ấy mà tả sự đố kị, ghen ghét, để thêm khẳng định cho vẻ đẹp ấy. Và để khách quan, ông đã để cho tạo hóa đánh giá vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều Vẻ đẹp của Kiều không chỉ khiến cho hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn” mà còn khiến cho nước phải nghiêng, thành phải đổ. Một sức ngưỡng mộ, mê say đến điên đảo cho vẻ đẹp của Kiều “Nghiêng nước nghiêng thành” còn là cách nói sáng tạo từ điển cố “nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” (nghoảnh lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người, nghoảnh lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người) để cực tả vẻ đẹp của bậc sắc giai nhân. Vẻ đẹp, chân dung của Thúy Kiều cũng dự báo về tính cách và số phận của nàng: Cái đẹp của Kiều không hài hòa mà vượt qua mọi khuôn khổ, chuẩn mực phép tắc của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến cho các vẻ đẹp khác phải ghen ghét, oán hận, đố kị và chứa đựng ý muốn trả thù. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm, một số phận sóng gió ->Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều mang một ấn tượng mạnh và sức gợi cho người đọc. Đó là vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp của chiều sâu, hơn những gì đẹp nhất. b, Vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn Không chỉ miêu tả là một giai nhân tuyệt thế, Nguyễn Du còn cho thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và rất đa tài: “Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương” ->Đây là một sự táo bạo của Nguyễn Du khi ông coi trí tuệ của người phụ nữ cũng là một phương diện để ca ngợi. Người phụ nữ trong khuôn khổ của xã hội phong kiến là “tam tong, tứ đức”, là “công, dung, ngôn, hạnh”, là “cầm, kì, thi, họa” và không hề có phương diện thông minh. Cho nên sự thông minh của Kiều được đặt trong bối cảnh của xã hội phong kiến lúc bấy giờ là một sự bứt phá, dũng cảm và táo bạo của Nguyễn Du. Ông đã đưa Kiều vượt khỏi những khuôn mẫu chuẩn mực của xã hội phong kiến. – Nàng là người con gái đa tài, đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), họa (vẽ) và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Đặc biệt, tài đàn đã được Nguyễn Du tập trung miêu tả. + Đó là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đàn của nàng điêu luyện và vượt lên trên mọi người: “ Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm” + Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cả sáng tác. “Bạc mệnh” chính là khúc nhạc mà nàng tự viết, khi cất lên ai cũng xúc động. – Miêu tả tài đàn cũng là một cách mà Nguyễn Du tập trung gợi lên một thế giới tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đa sầu, đa cảm của Thúy Kiều. – Đặc biệt cung “Bạc mệnh” như dự báo trước cuộc đời hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đối khó tránh khỏi của nàng. =>Qua mười hai câu thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp hội tụ sắc-tài-tình, tất cả đều đến mức lí tưởng, xuất chúng của Thúy Kiều. Đồng thời, cho thấy sự tài hoa của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả nhân vật. |
4, Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em ( 4 câu cuối – Hai chị em Thúy Vân, Thúy kiều không chỉ là những bậc tuyệt thế giai nhân mà họ còn là những đức hạnh và sống có khuôn phép: “Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.” + Gia cảnh: Họ sống trong một gia đình “phong lưu”, khuôn phép, nề nếp + Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo trong “trướng rủ màn che” + “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đến cái tuổi “toác búi, trâm cài” của cả hai chị em. Song họ vẫn sống một cuộc sống kín đáo, gia giáo sau bốn bức tường khép kín chưa từng biết đến chuyện nam nữ. -> Hai chị em họ vẫn là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, sống trong cảnh êm đềm và chưa một lần hương tỏa vì ai, đúng với khuôn phép, mẫu mực của lễ giáo phong kiến.
|
5, Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du qua đoạn trích
– Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, khát vọng ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân. – Bên cạnh việc trân trọng cái đẹp là những dự cảm đầy xót thương về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố của Nguyễn Du. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy cảm hứng nhân văn với con người của Nguyễn Du
|
III- ĐỀ BÀI LUYỆN TẬP
Bài tập 1: Trong hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, em thấy bức chân dung nào nổi bật hơn? Vì sao?
Gợi ý: Trong hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn vì
+ Chân dung Thúy Vân được miêu tả trước để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều. Có thể coi đây là thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Nguyễn Du chỉ dùng bốn câu thơ để miêu tả vẻ đẹp của Vân trong khi dùng tới 12 câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Kiều.
+ Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là vẻ đẹp ngoại hình còn vẻ đẹp của Kiều là cả nhan, sắc, tài năng, tâm hồn.
Þ Qua đó ta thấy được sự tinh tế của tác giả khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều.
Bài tập 2 : Một trong những thành công nổi bật của Nguyễn Du trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều ” là sử dụng bút pháp ước lệ để miêu tả nhân vật chính diện .
Thế nào là bút pháp ước lệ ? Tìm trong đoạn trích và chép lại chính xác những câu thơ tả nhan sắc Thúy Vân và Thúy Kiều có sử dụng bút pháp ước lệ.
Viết đoạn văn ngắn khoảng 10 câu phân tích tài nghệ miêu tả ngoại hình nhân vật của Nguyễn Du trong đoạn trích này.
Gợi ý :Bút pháp ước lệ là :
+ Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người.
+ Sử dụng những “công thức miêu tả” có sẵn trong quy ước của cộng đồng văn chương để miêu tả . (Ví dụ : tả người phụ nữ đẹp : mặt hoa, mày liễu; tả mùa thu : lá ngô đồng rơi, ao sen tàn lạnh….)
* Tả Thúy Vân :
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”
* Tả Thúy Kiều
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Đề bài
Cho câu thơ: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”
- Chép chính xác những câu thơ tiếp theo tả sắc đẹp của Kiều.
- Đoạn thơ em vừa chép nằm trong văn bản nào? Hãy giới thiệu vị trí của văn bản đó trong tác phẩm.
- Khi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì là chủ yếu? Trong tả, Nguyễn Du có dự báo trước cuộc đời và số phận của Thúy Kiều không? Hãy trình bày ngắn gọn ý kiến của em.
GỢI Ý:
Câu 1
– Chép chính xác 5 dòng thơ tiếp theo |
Câu 2
– Văn bản: “Chị em Thúy Kiều”
– Vị trí: + Trích “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), phần I: “Gặp gỡ và đính ước” (từ câu 15 đến câu 38) + Sau khi giới thiệu về gia cảnh Vương viên ngoại, đoạn trích tả vẻ đẹp của hai chị em T.V, T.K |
Câu 3
– Bút pháp ước lệ tượng trưng
– Nghệ thuật dự báo: Thông qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ: ngôn ngữ mang tính dự báo + “sắc sảo”: vẻ đẹp gắn với sự thông minh, lanh lợi -> khó bằng lòng với cuộc sống bình lặng + “mặn mà”: vẻ đẹp gắn với tâm hồn sâu lắng, nhiều suy tư -> gợi một cuộc sống nhiều trăn trở, suy tư, khó giản đơn + “hoa ghen, liễu hờn”: NT nhân hóa -> nhấn mạnh vẻ đẹp vượt trội, khó hài hòa với cuộc sống chung, dễ gặp phải những ganh ghét, đố kị ở đời -> một số phận không bình lặng. |