
Phân tích nhân vật người bà trong đoạn trích “Mùa giáp hạt” của Phan Đức Lộc
MÙA GIÁP HẠT
Mùa giáp hạt về, nồi cơm độn toàn khoai sắn. Bà nghẹn ngào nói với đàn cháu nhỏ: “Sắp hết gạo rồi, các cháu ráng chịu khổ một chút. Hồi bà còn bé như các cháu, đến mùa giáp hạt, ngay cả khoai sắn cũng không có mà ăn…”. Nghe bà kể, tôi chợt nhớ về nạn đói năm 1945 mà trong tiết học Lịch sử mấy hôm trước, thầy giáo đã tái hiện rất chi tiết. Đời bà khổ từ lúc lọt lòng cho tới tận về già, khi đã gần bước sang tuổi tám mươi vẫn còn chịu cảnh bần hàn, cơ cực. Thương bà, sau bữa cơm, tôi dặn đứa em không được vòi vĩnh, làm nũng bà.
Rồi thì gạo trong chum hết sạch, bà phải tất tưởi mang rá sang nhà bên vay gạo. Dù gạo trong chum cũng đã vơi cạn, nhưng chẳng chút đắn đo, bà hàng xóm vẫn niềm nở cho bà tôi vay mấy bát gạo liền, lại còn cho thêm khúc cá đồng kho mặn.
[…] Những ngày tiếp đó, để tiết kiệm chút gạo ít ỏi mới vay được, bà cháu tôi đành phải ăn cháo rau má trộn với muối lạc, ba phần gạo, đến bảy phần là rau má thái nhỏ. Nuốt thìa cháo nóng vào lòng rồi mà cổ họng vẫn còn đắng đót. Đứa em tôi không quen ăn cháo rau má nên nôn thốc, nôn tháo. Bà thương trào nước mắt, liền buông đũa, lật đật nhóm bếp nấu cơm cho em.
Đêm nằm bên bà, tôi nghe rõ tiếng bà thở dài trầm buồn, mỏi mệt. Suốt mấy đêm liền, bà cứ thao thức trở mình mà không sao chợp mắt nổi. Tôi biết những ngày như thế này, bà có hàng trăm thứ phải lo nghĩ. Chủ nợ mấy quán tạp hóa ngoài chợ cũng đã đánh tiếng. Bà ngày càng gầy sọp đi. Khóe mắt hốc hác. Da dẻ xuống sắc vàng vọt. Tài sản có giá trị lớn nhất trong nhà lúc ấy là con nghé non chưa tròn hai năm tuổi, bà đành ngậm ngùi bán đi. Còn nhớ hôm đó, khi người đàn ông đi đôi ủng da màu đen lẳng lặng dắt con nghé ra khỏi cổng, tôi và em tôi đã chạy theo òa khóc nức nở. Số tiền bán con nghé cũng chỉ vừa đủ trang trải nợ nần và mua thêm nửa yến gạo.
Trong một bữa tối, nhường phần cơm trắng cho đàn cháu nhỏ, bà ăn củ chuối luộc chấm nước mắm. Bà cười bảo: “Lúc trưa bà ăn cơm giờ vẫn còn no lắm. Với lại bà thích ăn củ chuối hơn”. Tự dưng lồng ngực nhói lên nghèn nghẹn, tôi đáp lại: “Cháu cũng thích ăn củ chuối hơn ăn cơm. Bà xem kìa, cơm trắng vẫn còn nhiều quá!”. Bà ôm hai đứa cháu nhỏ côi cút vào lòng, đôi mắt lại rơm rớm nước…
(Trích Mùa giáp hạt – Phan Đức Lộc, Nguồn: https://baoquangbinh.vn/van-hoa-van-nghe/201504/mua-giap-hat-2124378/)
I. Mở bài
– Trong đoạn trích “Mùa giáp hạt” của Phan Đức Lộc, nhân vật người bà hiện lên như một biểu tượng sống động của tình yêu thương, sự hy sinh và lòng kiên cường trong cảnh nghèo đói.
II. Thân bài
a. Hoàn cảnh:
Hoàn cảnh của bà đầy bần hàn, cơ cực khi cả gia đình phải đối mặt với cái đói giữa mùa giáp hạt, nhưng chính trong nghịch cảnh đó, hình ảnh người bà lại trở nên cao đẹp và đáng trân trọng.
b. Đặc điểm nhân vật:
– Một trong những phẩm chất nổi bật của bà là tình yêu thương bao la dành cho các cháu. Bà nghẹn ngào, chia sẻ từng miếng ăn ít ỏi, sẵn sàng nhường cơm trắng cho các cháu trong khi mình ăn củ chuối luộc, nói dối để các cháu an lòng: “Bà thích ăn củ chuối hơn cơm.” Hành động ấy thể hiện rõ sự hy sinh thầm lặng của bà, khiến người đọc xúc động trước tình yêu thương vô bờ bến.
– Bên cạnh đó, bà còn thể hiện sự kiên cường và tần tảo trong việc lo toan cho gia đình. Khi gạo hết, bà tất tả vay gạo, bán cả con nghé – tài sản lớn nhất – để trang trải nợ nần và mua thêm lương thực. Hình ảnh bà thao thức không ngủ, dáng người gầy sọp và đôi mắt hốc hác chính là minh chứng sống động cho nỗi lo toan, hy sinh không ngừng nghỉ vì con cháu.
c. Nghệ thuật:
Tác giả Phan Đức Lộc đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế và chân thực, khắc họa nội tâm nhân vật qua từng lời nói, hành động. Những chi tiết như tiếng thở dài, đôi mắt rơm rớm nước, hay hình ảnh bà nhường phần ăn cho cháu được lồng ghép khéo léo, giàu cảm xúc, giúp người đọc thấu hiểu nỗi khổ tâm và tình yêu thương của bà. Bên cạnh đó, nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh nghèo đói và phẩm chất cao đẹp của bà càng làm nổi bật giá trị nhân văn của câu chuyện.
III. Kết bài
Qua nhân vật người bà, tác giả không chỉ khắc họa rõ nét một hình ảnh giàu tình thương mà còn truyền tải thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình, sự hy sinh và nghị lực sống, khơi gợi trong người đọc lòng trân quý những giá trị giản dị nhưng đầy thiêng liêng trong cuộc đời.
Bài văn phân tích nhân vật người bà trong đoạn trích “Mùa giáp hạt” của Phan Đức Lộc
Trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người con đất Việt, hình ảnh người bà luôn gắn liền với những kỷ niệm thân thương, với bếp lửa rực hồng, giọng ru ngọt ngào hay đôi bàn tay gầy guộc tần tảo sớm hôm. Văn học nhiều lần khắc họa người bà như một biểu tượng của sự hiền hậu, bao dung và giàu đức hy sinh. Trong đoạn trích “Mùa giáp hạt” của Phan Đức Lộc, hình tượng ấy lại một lần nữa hiện lên thật xúc động: đó là một người bà nghèo khó nhưng giàu tình yêu thương, lặng lẽ hy sinh tất cả cho đàn cháu nhỏ giữa cảnh đời thiếu thốn.
Hoàn cảnh mà bà đang phải đối mặt thật khắc nghiệt. Mùa giáp hạt về, cái đói ập đến khiến nồi cơm gia đình chỉ toàn khoai sắn độn. Bà nghẹn ngào nói với cháu: “Sắp hết gạo rồi, các cháu ráng chịu khổ một chút.” Trong lời nhắn nhủ giản dị ấy là nỗi xót xa của một người từng trải qua những tháng ngày khốn cùng, từng chứng kiến nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đời bà, từ tấm bé cho đến lúc tuổi gần tám mươi, vẫn là chuỗi ngày cơ cực không dứt. Nhưng chính trong cái khổ đó, phẩm chất cao đẹp của bà càng hiện lên sáng ngời, để ta nhận ra rằng tình thương chính là nguồn sáng xua tan bóng tối của nghèo đói.
Phẩm chất đầu tiên làm ta xúc động là tình yêu thương bao la mà bà dành cho các cháu. Trong bữa cơm tối, khi cả nhà chỉ còn ít gạo ít ỏi, bà nhường phần cơm trắng cho đàn cháu nhỏ, còn mình thì ăn củ chuối luộc chấm nước mắm. Không muốn các cháu buồn tủi, bà cười bảo: “Bà thích ăn củ chuối hơn cơm.” Đằng sau nụ cười ấy là sự hy sinh âm thầm, là nỗi nhịn nhường cao cả của một tấm lòng chỉ biết nghĩ cho người khác. Cái đói cồn cào vẫn không thể nào làm bà quên đi tình thương dành cho cháu. Đó chính là sự bao dung vô bờ bến của tình bà, thứ tình cảm đã nuôi dưỡng tâm hồn biết bao thế hệ.
Không chỉ thương yêu, người bà còn là biểu tượng của sự tần tảo và kiên cường. Khi chum gạo cạn sạch, bà không ngần ngại gõ cửa hàng xóm vay gạo, dù lòng tự trọng khiến bà khó nói thành lời. Khi nợ nần chồng chất, bà đành ngậm ngùi bán con nghé, tài sản quý giá nhất của gia đình. Đó là sự lựa chọn đầy đau đớn, bởi con nghé không chỉ là vật nuôi mà còn là hy vọng về một tương lai bớt nhọc nhằn. Thế nhưng vì con cháu, bà sẵn sàng hy sinh niềm hy vọng ấy, miễn sao có thể cầm cự qua ngày giáp hạt. Những đêm thao thức, tiếng thở dài trầm buồn, dáng người gầy sọp, đôi mắt hốc hác… tất cả là minh chứng cho gánh nặng lo toan đang đè lên đôi vai già nua của bà. Ở bà, ta nhận ra sức chịu đựng kiên cường và nghị lực phi thường mà chỉ tình thương mới có thể nuôi dưỡng.
Phan Đức Lộc đã rất thành công khi khắc họa nhân vật bà bằng ngôn ngữ giản dị mà giàu sức gợi. Tác giả chọn lọc những chi tiết nhỏ bé đời thường nhưng lay động lòng người: tiếng thở dài, ánh mắt rơm rớm, hay cảnh bà buông đũa khi cháu không ăn nổi bát cháo rau má để rồi lật đật nhóm bếp nấu cơm mới. Những chi tiết ấy không ồn ào mà lặng lẽ, như chính con người bà giản dị mà cao cả. Nghệ thuật tương phản giữa cảnh đói nghèo khắc nghiệt và vẻ đẹp của tình thương càng làm nổi bật giá trị nhân văn của tác phẩm. Người đọc không chỉ thấy một câu chuyện gia đình nhỏ bé, mà còn cảm nhận được sức mạnh tinh thần to lớn của những con người Việt Nam qua bao thế hệ.
Hình ảnh người bà trong “Mùa giáp hạt” gợi nhắc ta đến bóng dáng quen thuộc trong ca dao:
À ơi cháu ngủ cho ngoan
Tiếng Bà ru cháu chứa chan tình người
Bà thương yêu cháu nhất đời
Sẵn sàng vì cháu thiệt thòi bản thân
Bà không ngủ được bao lần
Chỉ vì thương cháu có cần chi đâu.
Người bà trong văn học và đời thường đều là điểm tựa thiêng liêng, là vòng tay chở che ấm áp, là tấm gương của sự nhẫn nhịn và hi sinh. Đọc xong đoạn trích, ta không chỉ xúc động trước tình bà cháu, mà còn thấy lòng mình trào dâng niềm biết ơn với những người phụ nữ đã lặng lẽ hi sinh cho gia đình, để con cháu được sống trọn vẹn hơn.
Nhân vật người bà trong đoạn trích “Mùa giáp hạt” không chỉ là chân dung một cá nhân cụ thể mà còn là biểu tượng của tình thương, của nghị lực sống. Qua hình ảnh bà, Phan Đức Lộc đã gửi gắm thông điệp sâu sắc về giá trị gia đình, về sức mạnh của tình thương trong nghịch cảnh. Đó cũng là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy biết trân trọng, yêu thương và báo đáp công lao của những người thân, nhất là những bà, những mẹ, những người phụ nữ âm thầm giữ lửa cho mái ấm gia đình. Bởi chỉ khi ta biết nâng niu những tình cảm giản dị ấy, ta mới có thể cảm nhận hết vẻ đẹp thiêng liêng của cuộc đời.
Đoạn văn 200 chữ
Trong dòng chảy văn học viết về thân phận con người trong gian khó, hình ảnh người bà thường hiện lên như một điểm tựa tinh thần, nơi lắng đọng của tình thương và sự hy sinh. Trong đoạn trích Mùa giáp hạt của Phan Đức Lộc, nhân vật người bà được khắc họa vô cùng chân thực và xúc động, trở thành biểu tượng cho tình yêu thương vô bờ bến giữa cảnh nghèo đói. Bà hiện ra trong hoàn cảnh cơ cực, cả gia đình phải đối mặt với cái đói mùa giáp hạt, nhưng ở nơi tận cùng khốn khó ấy, bà vẫn giữ trọn tình thương dành cho con cháu. Bà nhường cơm trắng cho các cháu, chỉ ăn củ chuối luộc và còn nói dối rằng mình “thích ăn củ chuối hơn cơm” để các cháu được an lòng. Không chỉ thế, bà còn tất tả vay gạo, bán cả con nghé – tài sản lớn nhất của gia đình để lo cho cái ăn từng ngày. Hình ảnh bà thao thức, đôi mắt hốc hác và dáng người gầy sọp chính là minh chứng sống động cho những lo toan, tần tảo không ngừng nghỉ. Bằng ngòi bút miêu tả tinh tế, Phan Đức Lộc đã khắc họa một hình tượng người bà giàu yêu thương, giàu nghị lực, qua đó gợi nhắc người đọc về giá trị thiêng liêng của tình cảm gia đình.