
Phân tích, đánh giá đoạn trích “Quê mẹ” của Thanh Tịnh
QUÊ MẸ ( Thanh Tịnh)
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
(Ca dao)
Cô Thảo ra lấy chồng đã ba năm. Anh Vận chồng cô hiện làm hương thơ ở làng Mỹ Lý. Anh Vận trước kia có theo học chữ Quốc ngữ, nhưng đã hai năm thi yếu lược không đậu nên anh ta lại thôi. Qua năm sau dân trong xóm bầu anh ta lên làm hương thơ trong làng. Ngày nào anh ta cũng đi nhà này qua nhà khác phát thư, rồi chiều đến lại phải ra tận đình để lấy hòm thư đem lên huyện.
Công việc của anh tuy vất vả, nhưng lương tháng – hay nói cho đúng, lương năm – của anh trông ít quá. Làng chỉ trích cho anh ta ba mẫu ruộng và năm đồng bạc làm tiền lộ phí. Nhưng năm đồng ấy thì không bao giờ anh nhận được. Vì các viên chức đã khéo léo trừ với món tiền phải đóng sưu này thuế khác gần hết.
Nhưng ở vùng quê, được một chức nghiệp như thế, anh Vận cũng cho là danh giá lắm. Và bà Lại, mẹ anh Vận, lúc nói chuyện với những người quen, cũng không quên tự hào được một người con ra đảm đương việc làng việc nước.
Cô Thảo ra lấy chồng vốn liếng không có nên không đi buôn bán gì hết. Cả nhà chỉ trông vào một mẫu ruộng tranh và ba mẫu ruộng làng để sống năm này tháng khác.
(Gần đến ngày giỗ ông, cô Thảo muốn xin chồng về làng, lại không muốn nói thẳng.
Nhưng mãi đến chiều cũng không nghe chồng nói gì, nên cô phải mượn cây thanh trà để nhắc xa xôi cho chồng nhớ. Anh Vận xin mẹ cho vợ về làng ăn giỗ. Mẹ chồng bảo cô mang buồng chuối mật trong vườn về giỗ ông, lại cho cô một hào để đi đò. Anh Vận cũng chạy quanh xóm mượn chỗ này, chỗ khác cho cô Thảo thêm bốn hào nữa)
Tối hôm ấy cô Thảo không đi ngủ sớm. Cô đặt con ngủ yên bên chồng xong lại lật đật xách dao ra sau vườn chuối. Loay hoay một lúc lâu cô mới đem được buồng chuối mật vào nhà. Cô đem để vào một góc thật kín vì cô sợ nửa đêm chuột đến khới. Xong rồi cô mới qua bên nhà cô Thị mượn đôi hoa tai vàng và cái nón lá mới. Sắp đặt đâu đó xong xuôi cô mới lên giường nằm ngủ.
Trời tờ mờ sáng cô Thảo đã trở dậy sắm sửa đi về làng. Làng cô ở cách xa làng Mỹ Lý hơn mười lăm cây số. Vì vậy nên mỗi năm cô chỉ được về làng chừng hai ba lượt là nhiều. Xưa kia cô từng qua lại làng Mỹ Lý ngày một để bán gạo, nhưng sau lúc cô ra lấy chồng thì quê nhà đối với cô đã là nơi xa lạ.
Qua những con đường mòn chạy nấp theo bờ ruộng, cô lại nhớ đến quãng đời bán gạo của cô ngày trước. Trong trí cô hiện ra lần lần hình ảnh của cô Thu, cô Nguyệt, cô Hương, những cô bạn mà trước kia cô cho là thân nhất. Nhưng đời các cô ấy cũng như cô, nghĩa là cũng có chồng, có con và quãng đời làm dâu cũng vất vả, cũng phẳng lặng như nhau hết.
Đi chưa được bốn cây số cô Thảo đã thấy mỏi. Cô tự nhận thấy sức cô yếu hơn trước nhiều lắm. Cô muốn đi đò cho đỡ chân, nhưng sực nhớ đến những món quà cần phải cho em, cô lại gắng gượng đi nhanh hơn trước.
[…]
Về đến làng cô Thảo gặp ai cũng đón chào niềm nở. Lòng cô lúc ấy nhẹ nhàng và vui sướng lắm. Còn họ gặp cô đi đằng xa đã kêu réo om sòm như gặp được người sống lại. Họ hỏi thăm cô chuyện này chuyện khác, mục đích là để xem cô ăn mặc độ này có khá hơn trước không. Cô Thảo thấy người làng chào hỏi mình vồn vã nên đáp lại rất vui vẻ. Cô ta không quên lấy cái nón xuống, giả vờ quạt vào mình để mấy người đứng chung quanh được thấy đôi hoa tai vàng của cô.
Đến trưa hôm ấy thì cô về đến nhà. Mấy cậu em đua nhau ra níu áo chị. Cô Thảo xoa đầu đứa này đỡ cằm đứa khác, nụ cười trên môi cô không khi nào tắt. Trông thấy mẹ trong nhà đi ra cô mừng quá. Cô chạy lại đứng bên mẹ cảm động quá đến rưng rưng nước mắt. Một lúc sau cô đưa thằng Lụn cho mẹ ẵm rồi đi thẳng vào nhà để chào những người quen biết.
Bà Vạn cứ quấn quít bên cháu, bên con quên cả ngày giờ. Bà giới thiệu cô Thảo với người này người khác, bà nhắc đến chuyện cô Thảo lúc cô còn năm sáu tuổi. Bà kể đến đoạn nào bà cũng có ý khoe cô Thảo đức hạnh và khôn ngoan đủ thứ. Bà nói mãi mà không biết chung quanh bà không ai nghe bà hết.
Sung sướng nhất là cô con gái có chồng về nhà mẹ. Cô Thảo tuy về giỗ ông nhưng không làm gì hết. Cô vào phòng mẹ nằm ngủ cả buổi chiều, mãi đến lúc gần cúng cô mới chịu đi ra ngoài.
Lúc cô đứng lễ thì ông Vạn, thân sinh cô, vuốt râu cười nói:
– Con phải lễ thế phần chồng con nữa. Nó làm gì bên ấy mà không đến
Cô Thảo sau khi thụt lùi ra khỏi chiếu, mới khẽ đáp:
– Dạ, nhà con mắc việc quan.
Cô Khuê, chị em chú bác với cô Thảo, đứng gần đấy trề môi nói tiếp:
– Thứ đồ làm hương thơ mỗi năm ăn ba mẫu ruộng mà cũng gọi là việc quan.
– Ai nấy đều nghe thấy nhưng không ai cãi lại. Ông Vạn đứng cúi đầu xuống hơi ngượng. Còn cô Thảo gương mặt đỏ bừng, quay đầu nhìn xuống bếp. Nhưng ngay lúc ấy cô lại gặp cặp mắt của mẹ đang nhìn cô chòng chọc. Cô đau lòng quá đến để hai dòng lệ chảy dài trên má.
– Sáng hôm sau, cúng cơm sáng xong xuôi, cô Thảo lại sắm sửa đi qua làng Mỹ Lý. Cô gọi mấy đứa em đến gần rồi cho mỗi đứa năm xu. Trong nhà ai cũng khen cô rộng rãi và biết thương em, nên cô vui sướng lắm. Đang lúc cao hứng cô còn hứa sẽ gửi cho mẹ hai cặp quần áo mới để mặc Tết nữa. Nhưng chính cô cũng không biết sẽ lấy đâu ra hai cặp quần áo ấy. Chỉ trong nháy mắt cô Thảo đã phân phát tất cả số tiền cô đã dành dụm trong một năm.
– […]
– Về nhà chồng, cô Thảo lại làm việc từ mai đến chiều, tối tăm cả mày mặt. Lúc nào cô cũng nhớ đến mẹ nghèo, đến em thơ, nhưng nhớ thì lòng cô lại bùi ngùi, trí cô lại bận rộn. Rồi chiều chiều gặp những lúc nhàn rỗi, cô lại ra đứng cửa sau vơ vẩn nhìn về làng Quận Lão. Nhưng làng Quận Lão ẩn sau đám tre xanh đã kéo một gạch đen dài trên ven đồi xa thẳm.
-(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 33, NXB Khoa học xã hội, 2000,Tr.819-823)
I – Mở bài
Dẫn dắt vấn đề:
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, những tác phẩm về đề tài quê hương luôn gợi lên những cảm xúc đặc biệt, nhất là khi gắn liền với tình cảm gia đình. Thanh Tịnh – một nhà văn nổi tiếng với lối viết nhẹ nhàng, giàu chất thơ – đã mang đến Quê mẹ, một truyện ngắn đầy xúc động, thể hiện sâu sắc tâm tư của những người con gái lấy chồng xa.
Nêu vấn đề nghị luận:
Truyện không chỉ tái hiện một bức tranh chân thực về cuộc sống nông thôn mà còn chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc về tình yêu quê hương, gia đình, và những hy sinh thầm lặng.
Ý kiến cá nhân:
Quê mẹ là một tác phẩm giàu giá trị cả về nội dung lẫn nghệ thuật, phản ánh tinh thần nhân ái và vẻ đẹp giản dị của con người Việt Nam.
II – Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ
Nhan đề “Quê mẹ”:
– Gợi nhắc quê hương là nơi gắn bó sâu sắc nhất trong cuộc đời mỗi con người – nơi gia đình, dòng họ sinh sống qua nhiều thế hệ.
– Từ “quê mẹ” đặc biệt hơn, mang ý nghĩa là nơi ta sinh ra, lớn lên, và là nơi chốn yêu thương để ta nhớ về khi xa cách.
Lời đề từ (Ca dao):
– Câu ca dao nói về nỗi niềm, tâm trạng của người con gái lấy chồng xa, luôn đau đáu hướng về quê hương, gia đình.
– Là sợi dây mở đầu, kết nối cảm xúc cho toàn bộ tác phẩm.
2. Phân tích nhân vật cô Thảo
Nhân vật cô Thảo được khắc họa sinh động qua tâm trạng, hành động, và cử chỉ trong các bối cảnh:
– Đêm trước khi về giỗ ông:
+ Tâm trạng nôn nao, háo hức nhưng cũng lo toan, chuẩn bị kỹ càng (mượn hoa tai, sắm sửa quà cáp, xách dao chặt chuối).
+ Thể hiện cô là người chu đáo, biết vun vén gia đình và trọng tình nghĩa.
– Trên đường về quê:
+ Những ký ức thời trẻ dần hiện ra, cô nhớ lại quãng đời bán gạo và những người bạn cũ.
+ Sự mệt mỏi trên hành trình dài cho thấy cuộc sống lam lũ, sức khỏe sa sút của người phụ nữ đã lấy chồng xa, sống vất vả.
– Khi về đến làng:
+ Cô Thảo được người làng chào đón nồng nhiệt, lòng cô tràn đầy niềm vui và tự hào.
+ Tuy nhiên, qua những câu hỏi của người làng, cô cũng cảm nhận áp lực xã hội khi mọi người quan tâm đến việc cô ăn mặc có khấm khá hơn không.
– Khi về đến nhà mẹ:
+ Cảm giác hạnh phúc vỡ òa khi gặp lại mẹ và các em, cô không giấu được sự xúc động đến rơi lệ.
+ Cô Thảo thể hiện lòng yêu thương em thơ qua việc phân phát hết số tiền đã dành dụm trong một năm.
– Khi trở lại nhà chồng:
+ Cô lại trở về nhịp sống bận rộn, làm lụng từ sáng đến tối.
+ Những lúc rảnh rỗi, cô đứng ở cửa sau nhìn về làng quê, nỗi nhớ quê nhà càng thêm da diết.
3. Giá trị nhân vật cô Thảo
– Hình mẫu người phụ nữ Việt Nam truyền thống:
+ Đảm đang, hy sinh vì gia đình.
+ Khéo léo, lễ phép trong cách ứng xử với mẹ chồng, hàng xóm và họ hàng.
– Thông điệp từ hình ảnh cô Thảo:
+ Là biểu tượng của nỗi lòng người con gái lấy chồng xa quê.
+ Tôn vinh những giá trị gia đình, tình làng nghĩa xóm, và sự gắn bó với quê hương.
4. Nhận xét về cách ứng xử của các nhân vật
– Anh Vận: Dù hơi vô tâm, anh vẫn cố gắng chạy vạy lo lắng cho vợ về quê. Điều này thể hiện tình thương yêu vợ trong hoàn cảnh khó khăn.
– Mẹ chồng cô Thảo: Người mẹ chồng ân cần, quan tâm, tuy nghèo nhưng vẫn hết lòng giúp đỡ con dâu về quê.
– Cô Thảo: Biểu hiện sự lễ phép, khéo léo trong cách ứng xử với mọi người xung quanh, từ gia đình chồng đến hàng xóm, họ hàng.
– Người dân làng: Sự đón chào niềm nở của họ cho thấy tình làng nghĩa xóm đậm nét, tạo không khí thân thương, gần gũi.
5. Thông điệp và giá trị tác phẩm
+ Tác phẩm khơi gợi tình yêu quê hương, gia đình, và trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp.
+ Qua câu chuyện, Thanh Tịnh khéo léo ca ngợi cuộc sống bình dị, chân thành và những con người giàu tình cảm ở thôn quê.
III – Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề: Quê mẹ không chỉ là một câu chuyện giản dị về cuộc sống nông thôn, mà còn là một bức tranh đẹp về tình người và tình quê.
– Đánh giá chung: Thanh Tịnh đã thành công trong việc gửi gắm thông điệp nhân văn sâu sắc qua lối viết giàu cảm xúc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Chủ đề:Cảm nhận nhân vật cô Thảo trong Quê mẹ, Chủ đề của tác phẩm Quê mẹ, nhân vật cô thảo trong quê mẹ'' là người như thế nào, Phân tích nhân vật cô Thảo trong truyện ngắn Quê mẹ, Phân tích tác phẩm Quê mẹ, So sánh tác phẩm quê mẹ và cô hàng xén, Thông điệp trong truyện ngắn quê mẹ, Tìm hiểu tác phẩm Quê mẹ