[Tài liệu văn 9] Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
KIẾN THỨC ÔN TẬP “ĐỒNG CHÍ”
I/KHÁI QUÁT CHUNG
1/Tác giả
– Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
– Ông thường tập trung khai thác ở hai mảng đề tài chính là người lính và chiến tranh.
– Phong cách sáng tác: Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, ngôn ngữ thơ cô đọng hàm súc
2/Tác phẩm:
– Bài thơ “Đồng chí” là 1 trong những tác phẩm được đánh giá là thành công nhất của Chính Hữu viết về đề tài người lính cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954.
a/Hoàn cảnh sáng tác
– Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Trong chiến dịch ấy, cũng như những năm đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và tình đồng chí, đồng đội, họ đã vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau chiến dịch này, Chính Hữu viết bài thơ “Đồng chí” vào đầu năm 1948, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh. Bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ, tha thiết của tác giả với đồng đội, đồng chí của mình trong chiến dịch Việt Bắc
– Bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ, tha thiết của tác giả với đồng đội, đồng chí của mình trong chiến dịch Việt Bắc
– Bài thơ in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” (1966).
– Bài thơ đi theo khuynh hướng: Cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường.
b/Khái quát nội dung, nghệ thuật bài thơ
– Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng, đồng thời bài thơ cũng làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn.
– Chi tiết, hình ảnh, chân thực, ngôn ngữ giản dị, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
c/Nhan đề bài thơ
– Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng.
– Đồng chí gợi cảm nghĩ về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một loại tình cảm mới, một tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm tháng cách mạng kháng chiến.
– Đồng chí, đó còn là cách xưng hô của những người cùng trong một đoàn thể cách mạng, của những người lính, người công nhân, người cán bộ từ sau cách mạng.
Hai tiếng “Đồng chí” là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
d/Bố cục: Ba phần
– Phần một: 7 câu đầu: Những cơ sở hình thành của tình đồng chí, đồng đội.
– Phần hai: 10 câu tiếp: Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội.
– Phần ba: 3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội.
II/TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
1/Những cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội (7 câu thơ đầu)
a/Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân
– Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đông chí, đồng đội:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá’’
+ Với cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh – làng tôi” và thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm thật mới mẻ.
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua” gợi lên vùng đồng bằng ven biển nhập mặn, đọ chua cao khó khăn cho việc cày cấy; “đất cày lên sỏi đá” gợi đến những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác.
à Như vậy “Quê hương anh” – “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền ngược, kẻ miền xuôi nhưng đều là những người nông dân mặc áo lính, đều từ những vùng quê nghèo khó mà ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Từ giã quê hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ những người chiến đấu cho một lí tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là sợi dây tình cảm đã nối họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những người đồng chí, đồng đội của nhau.
a/Cơ sở thứ hai: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ
– Trước ngày nhập ngũ, họ là những con người “xa lạ” từ những miền quê cách xa nhau về vị trí địa lí:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
– Nhưng theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ trở nên thân quen với nhau bởi họ cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu: Vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,”
+ Cuộc kháng chiến đã kéo họ lại với nhau cùng chung một chiến hào để đánh giặc cứu nước, bảo vệ nền tự do của dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Pháp chính là nơi tập hợp những con người đầy nghĩa khí.
+ Hình ảnh ‘Súng” và “đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. “Súng” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu; “đầu” tượng trưng cho mục đích, lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc.
+ Phép đối chia làm hai vế sóng đôi nhau để cho thấy sự sát cánh bên nhau của các anh. Cùng chung lí tưởng, cùng chung chiến hào họ càng trở nên gần gũi với nhau hơn.
à Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.
c/Cơ sở thứ ba: Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn
– Tình đồng chí còn được nảy nở và trở nên bền chặt trong sự chan hòa chia sẻ mọi khó khăn thiếu thốn thời kì đầu của cuộc kháng chiến:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ’’
+ Câu thơ đã diễn tả một hình ảnh thật chân thật. Đêm rừng chiến khu Việt Bắc sương muối rơi nhiều lạnh buốt như kim châm, chăn lại không đủ đắp. Để vượt qua được cái khắc nghiệt của thời tiết, truyền hơi ấm cho nhau các anh đã đắp chung chăn với nhau. Nói về tình cảm này,nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc cũng viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
+ Chính sự khó khăn, thiếu thốn ấy đã làm cho người lính gắn bó thân thiết với nhau. Giữa họ có biết bao nhiêu tình cảm được nảy sinh.
+ Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi”. Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lựa chọn từ “đôi“. Vì “đôi” cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.
+ Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri ki”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình. Đó là sự phát triển tình cảm giữa những người lính.
– Chung khó khăn gian khổ, chung tình bạn thân thiết, gắn bó, tình cảm này còn được nâng lên khi giữa họ nảy sinh một tình cảm mới đó là tình đồng chí ở dòng thơ thứ bảy:
“Đồng chí!”
+ Câu thơ có cấu trúc đặc biệt- chỉ một từ gồm hai tiếng và một dấu chấm than vang lên như một nốt nhấn, thể hiện cảm xúc dồn nén- một tiếng gọi thân thương của tình đồng chí, đồng đội. Nó còn có vai trò như một cái bản lề khép lại ý thơ đoạn trên và mở ra ý thơ đoạn dưới.
-> Câu thơ giản dị, mộc mac, lời thơ cô đúc, hàm súc nhưng ý nghĩa sâu xa: ca ngợi một tình cảm mới mẻ nhưng rất đỗi thiêng liêng- tình đồng chí. Chính Hữu đã từng tâm sự: “những năm đầu kháng chiến từ đồng chí mag ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cunbgf, nói về tình cảm của các anh bộ đội. Cuộc sống của người này trở nên cần thiết đối với người kia. Họ bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, cùng nhau thực hiện lí tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa sâu xa của tình đồng chí.
=> Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
2/Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội (mười câu thơ tiếp)
a/Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của nhau
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
+ Trước khi vào lính họ đều là người nông dân gắn bó với ruộng đồng. Nhng khi có chiến tranh, tinh thần dân tộc đã thôi thúc họ lên đường. Họ gửi lại sau mình những gì thân thiết nhất; ruộng nương, gian nhà, người thân yêu. Ruộng nương và gian nhà vốn là những tài sản quý giá, gắn bó, gần gũi với họ nhưng vì Tổ quốc họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, “mặc kệ” cho gió lung lay.
+ “Mặc kệ” không phải là sự thoái thác, thờ ơ của người lính mà đó là thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính vì nghĩa lớn. Hơn ai hết họ hiểu được một điều mất nước thì nhà tan nên họ đã quyết tâm ra đi hi sinh cái riêng vì lợi ích chung của dân tộc.
+ Họ ra đi vì nghĩa lớn nhưng vẫn nặng lòng với quê hương, gia đình. ‘Giêng nước, gốc đa” là hình ảnh hoán dụ cho những người thân, cho quê hương của các anh. Quê nhà nhớ lắm các anh và các anh cũng nhớ quê nhà. Rõ ràng đó là nỗi nhớ hai chiều nhưng vì lí tưởng, nhiệm vụ cao cả nên các anh gác lại, chôn sâu tình cảm của cá nhân mình để nó ở trong lòng nên Chính Hữu đã giấu đi nỗi nhớ này của những người lính mà chỉ nói đến nỗi nhớ của quê nhà, của hậu phương với tiền tuyến. Như vậy, các anh không hề nói là tôi nhớ nhà mà tự trong ánh mắt của nhau họ thấu hiểu được nỗi lòng của nhau
b/Biểu hiện thứ hai: Cảm thông, chia sẻ những khó khăn, gian khổ trong cuộc đời quân ngũ.
Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vâng trán ướt mô hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giả
Chân không giày”
– Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Đó là những cơn sốt rét rừng cùng với sự thiếu thốn về quân trang quân dụng trong cuộc đời quân ngũ: áo rách, quần vá, chân không giày. Những khó khăn gian khố như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối. Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến.
– Song vượt lên những khó khăn gian khổ ấy họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
– Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi với bút pháp lãng mạn đã diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.
Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương của người kia. Tình thương đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.
c/Biểu hiện thứ 3: yêu thương gắn bó với nhau
– Chung nhau về những khó khăn thiếu thốn ấy, chung nhau về những tâm tư nỗi niềm sẻ chia ấy để rồi tác giả đã khái quát lên sức mạnh của những người lính biểu hiện một cách cô đọng ở câu thơ cuối cùng của phần thứ hai:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
+ Đó là những cử chỉ thể hiên tình cảm chân thành, mộc mạc của người lính.
+ Tay nắm lấy bàn tay để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng chí.
+ Những cái bắt tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần.
+ Những cái bắt tay chính là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.
+ Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù.
à Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, sự đoàn kết găn bó đã nâng đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
3/Biểu tượng của tình đồng chí, đồng đội
– Kết thúc bài thơ là 3 câu thơ kết đọng hàm súc biểu tượng của tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
– 3 câu thơ đã dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí. Bức tượng đài ấy được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:“Đêm nay rừng hoang sương muối”. Rừng đêm lạnh lẽo, hoang vu, phủ đầy sương muối; không khí căng thẳng trước một trận chiến đấu.
– Trên nền không gian, thời gian khắc nghiêt ấy, những người lính xuất hiện trong tư thế “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu. Người lính luôn sát cánh bên nhau trong mọi h/cảnh.
– Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức tranh về tình đồng chí, rất thực và mang ý nghĩa biểu tượng ‘Đầu súng trăng treo”
+ Trước hết đó là hình ảnh tả thực mà Chính Hữu đã nhận ra từ những đêm phục kích chờ giặc: Trong điều kiện đêm khuya canh gác trên chòi cao, mũi súng lên bầu trời. Đêm khuya trăng xuống thấp, đứng ở dưới nhìn lên cảm giác như trăng đang treo trên đầu mũi súng.
+ Đó còn là hình ảnh giàu sức biểu tượng gợi nhiều liên tưởng phong phú: Súng là biểu tượng cho chiến tranh, trăng biểu tượng cho hòa bình, hiện thực và lãng mạn. Từ đó cho ta thấy vẻ đẹp trong tâm hồn người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Bản thân các anh mang trong mình hai vẻ đẹp: vừa là người chiến sĩ với nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc vừa là thi sĩ với tâm hồn lãng mạn giao hòa với thiên nhiên. Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.
Hình ảnh này xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng chiến: một nền thơ có sự kết hợp giữa chất liệu hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
4/Đánh giá chung:
Như vậy bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung: Tình đồng chí. Đó là mối tình có cơ sở hết sức vững chắc: sự đồng cảm của những người chiến sĩ vốn xuất thân từ những người nông dân hiền lành chân thật gắn bó với ruộng đồng. Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt lại tôi luyện thử thách làm cho mối tình đồng chí đồng đội của những người lính càng gắn bó, keo sơn. Mối tình thiêng liêng sâu nặng, bền chặt đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những người lính “áo rách vai”, “chân không giầy” vượt lên mọi gian nguy để đi tới và làm nên thắng trận để viết lên những bản anh hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc…. Tô thắm thêm trang sử chống Pháp hào hùng của dân tộc.
III. Tổng kết
Bằng những hình ảnh giản dị, chân thực; ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, tác giả đã khám phá, ngợi ca một tình cảm đẹp của những người lính cách mạng. Đó là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sâu nặng. Đồng thời tác phẩm còn nêu bật lên hình ảnh chân thực, giản dị vào cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu KC chống Pháp.