[Tài liệu văn 11] Phân tích chi tiết cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù”
Chi tiết “cảnh cho chữ” trong Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lí sinh ra.
(Hãy nhớ lấy lời tôi – Tố Hữu)
Mỗi khi đọc những vần thơ đầy xúc động về người anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, không hiểu sao, tôi thường hay nghĩ đến Huấn Cao – nhân vật chính trong tác phẩm Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân. Có phải chăng bởi Huấn Cao cũng chính là hiện thân của một con người như chân lí sinh ra với cái chết hóa thành bất tử? Bước chân vào trang văn của Nguyễn Tuân, ta mới thấy rõ được điều đó. Đâu đó quanh tôi văng vẳng tiếng mõ vang trên vọng canh, hình ảnh bó đuốc cháy đỏ ngòm, tôi chợt nhìn thấy một tên tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Đó có phải là Huấn Cao? Có lẽ vậy, bởi tôi đang chiêm ngưỡng những thước phim sáng tạo xuất thần cuối cùng trong Chữ người tử tù – cảnh cho chữ.
Nếu ai đã từng đọc Chữ người tử tù hẳn sẽ thấy, cảnh cho chữ xây dựng dựa trên tình huống éo le, oái ăm, đầy kịch tính. Đó là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục. Ở phương diện nghệ thuật, Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, tột bậc. Còn quản ngục là kẻ liên tài, nói theo ngôn ngữ hiện đại, Huấn Cao là thần tượng của quản ngục. Trên bình diện xã hội, họ lại là kẻ thù “không đội trời chung” với nhau: tử tù và quản ngục, kẻ chống lại triều đình và người bảo vệ triều đình. Quản ngục khao khát xin chữ của Huấn Cao, nhưng Huấn Cao lạnh lùng khinh bỉ quản ngục. Quản ngục càng khép nép hạ mình đến buồng giam của Huấn Cao cung kính giãi bày những lời chân thành, thì đáp lại lời chân tình của quản ngục là hành động xua đuổi, sỉ nhục. Mâu thuẫn kịch tính nhanh chóng đẩy tới cao trào. Tình huống truyện thắt nút khi quản ngục nhận công văn khẩn ngày mai phải giải Huấn Cao vào kinh chịu án tử hình. Liên tiếp những câu hỏi đặt ra trong tâm trí người đọc: liệu quản ngục có dám giáp mặt với Huấn Cao lần nữa. Quản ngục có kịp giãi bày sở nguyện cao quý của mình? Và liệu Huấn Cao có hiểu tấm lòng của quản ngục. Và những băn khoăn của người đọc được giải đáp khi cảnh cho chữ diễn ra.
Truyện ngắn Chữ người tử tù khép lại bằng một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” – “cảnh cho chữ”. Trước hết, ta thấy nơi diễn ra cảnh cho chữ thật vô cùng lạ. Chơi chữ vốn là thú chơi thanh cao của những tao nhân mặc khách. Cho chữ, tặng chữ, công việc ấy thường diễn ra ở thư phòng sang trọng hay những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Đằng này Huấn Cao cho chữ quản ngục chữ ngay tại phòng giam của từ tù chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Tác phẩm thư pháp được sáng tạo ngay tại tù ngục, cái đẹp được khai sinh ở nơi mà cái xấu, cái ác ngự trị. Đó phải chăng lại một sự lạ lùng hiếm thấy. Hơn nữa, thường thì cảm hứng nghệ thuật thường nảy nở và thăng hoa khi tâm hồn nghệ sĩ thảnh thơi, thư thái. Ở đây, Huấn Cao sáng tạo trong một hoành cảnh vô cùng ngặt nghèo: “cổ đeo gông”, “chân vướng xiềng”, cái chết đang kề sát cổ. Hiếm có người nghệ sĩ nào lại sáng tạo trong hoàn cảnh éo le như thế. Cho chữ là cảnh hiếm thấy nơi ngục tù xưa nay. Nếu cho chữ diễn ra ở đây thì ta luôn nghĩ rằng quản ngục là người cho chữ, kẻ nhận là người tử tù. Ở đây thì ngược lại, tử tù cho chữ, quản ngục nhận chữ. Càng lạ hơn, tử tù cho chữ, hành động cho chữ của tử tù Huấn Cao hoàn toàn không phải là biếu xén, hối lộ để chạy án. Huấn Cao cho chữ quản ngục để đền đáp tấm lòng cao quý của quản ngục. Xét đến tư thế, vị thế ta lại càng thấy lạ hơn. Về tư thế, tử tù Huấn Cao dù cái chết đang kề sát cổ nhưng vẫn ung dung đĩnh đạc. Trong khi đó, quản ngục “khúm núm”, “cúi đầu”, “quỳ gối” còn thầy thơ lại “run run”. Về thái độ, kẻ đáng ra không việc gì phải sợ thì lại khép nép, sợ sệt. Người đáng ra phải lo âu sợ hãi thì lại không biết sợ là gì. Quản ngục chẳng những không giáo dục tử tù mà trái lại, tử tù giáo dục quản ngục. Và cuối cùng, cái lạ nhất là ranh giới giữa quản ngục và tử tù đã hoàn toàn bị phá hủy. Cả hai người họ cùng quây quần bên cái đẹp, giữa họ chỉ còn tình tri kỉ, sâu sắc.
Có thể thấy, không chỉ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, “cảnh cho chữ” còn là bệ phóng hoàn hảo, làm nổi hình, nổi sắc các nhân vật và làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Mọi vẻ đẹp tâm hồn của Huấn Cao và quản ngục đều hội tụ, thăng hoa ở “cảnh cho chữ” có một không hai này. Trước hết, ở “cảnh cho chữ” ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Còn với quản ngục, ta thấy được hành động và cử chỉ vô cùng đẹp đẽ và ấn tượng: Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Về hành động của quản ngục, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có lời bình chí lí: Có những cái cúi đầu khiến cho con người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho người ta đê tiện. Nhưng cũng có cái cúi đầu bỗng làm cho con người ta trở nên cao cả, lớn lao, lẫm liệt, sang trọng hơn. Đó là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp và thiên lương. Và cái cúi đầu của quản ngục trước Huấn Cao là một cái cúi đầu sang trọng, lớn lao như thế. Chiêm ngưỡng cái cúi đầu của quản ngục, ta bất giác nhớ đến câu thơ để đời của Cao Báo Quát – nguyên mẫu hình tượng của Huấn Cao: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. Có thể thấy, đó đều là những cái cúi đầu để lại cho chúng ta bài học đáng suy ngẫm. Hành động quản ngục vái lạy Huấn Cao chứng tỏ quản ngục đã giác ngộ. Quản ngục đã nhận ra con đường sáng và chúng ta tin quản ngục sẽ có hành động bất ngờ.
“Cảnh cho chữ”, một cảnh tượng quan trọng trong truyện ngắn Chữ người tử tù, ở đó không chỉ vẻ đẹp của nhân vật được hội tụ mà tư tưởng tài năng nghệ thuật của tác giả được kết tinh. Cảnh cho chữ khẳng định sự chiến thắng của ánh sáng, cái thiện, cái đẹp trước bóng tối, cái xấu xa, tàn bạo. Không những vậy, cảnh cho chữ còn khẳng định sức mạnh diệu kì của cái đẹp – cái đẹp khai sáng, thức tỉnh con người. Và cái đẹp đó hóa thành bất tử, trường tồn cùng vũ trụ và bản thân nó sẽ không bao giờ chịu sự lụi tàn, sự băng hoại của thời gian. Đồng thời, ở “cảnh cho chữ”, ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đó là một cảnh xuất thần, một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân. Qua đó, ông đã thể hiện tình yêu tha thiết với truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc, đó cũng là biểu tượng thầm kín của tình yêu nước đáng quý. Ngôn ngữ trong cảnh cho chữ trang trọng, cổ kính, giàu chất tạo hình, đậm màu sắc điện ảnh. Sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, cái thiện và cái ác, cao cả và thấp hèn, cái đẹp và sự tầm thường đê tiện… tất cả đã tạo nên sự hấp dẫn kì lạ của “cảnh cho chữ”.