[Tài liệu văn 11] Phân tích bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu
TỪ ẤY (Tố Hữu)
I/ Khái quát
1/ Hoàn cảnh ra đời
– Từ ấy là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, được sáng tác từ năm 1937 đến năm 1946. Tập thơ có ba phần: Máu lửa, Xiểng xích, Giải phóng. Bài thơ Từ ấy nằm trong phần Máu lửa của tập thơ này.
– Tháng 7/1938, sau thời gian hoạt động phong trào thanh niên ở Huế, Tố Hữu vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Niểm vui sướng hân hoan và tự hào khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng là cảm xúc chủ đạo để Tố Hữu viết nên bài thơ này.
2/ Ý nghĩa nhan đề
– Đánh dấu mốc son chói lọi trong cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ.
– Thể hiện niềm vui sướng, hân hoan của nhà cách mạng trẻ tuổi lần đẩu tiên bắt gặp lí tưởng của Đảng, của cách mạng và nguyện dấn thân vào con đường máu lửa ấy.
II/ PHÂN TÍCH NỘI DUNG
Trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của chiến tranh, rất nhiều nhà thơ đã giác ngộ chân lí của Đảng, của cách mạng Việt Nam, từ đó đã cho ra đời những bài thơ mang đậm khí thế hiên ngang, anh dũng. Một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học kháng chiến chống Pháp chính là nhà thơ Tố Hữu, mà sự giác ngộ cách mạng của ông được thể hiện qua bài thơ Từ ấy.
Bài thơ gồm ba khổ nhưng tạo thành hai phần khác biệt và rõ nét: phần một là khổ thơ đẩu, thể hiện niềm vui sướng ngập tràn trong tâm hồn khi nhà thơ bắt gặp lí tưởng cộng sản (măt trời chân lí) như một nguồn sáng đẹp đẽ; phần thứ hai là hai khổ thơ còn lại, nhà thơ nguyện suốt đời gắn bó với quần chúng cẩn lao và hi sinh, phấn đấu cho lí tưởng cách mạng.
-
Khổ thơ đầu: Niềm vui sướng say mê khi bắt gặp lí tưởng cách mạng
Ngay từ khổ thơ đầu nhà thơ không thể nào giấu nổi cảm xúc say mê vui sướng của mình khi bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng. Niềm vui sướng ấy rất chân thành và đầy thành kính:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Khổ đầu của bài thơ tập trung diễn tả niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng Cộng sản. Ở khổ thơ đẩu có sự kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp tự sự và trữ tình. Hai câu thơ đầu được tác giả viết theo bút pháp tự sự. Lời thơ như lời kể vê’ một kỉ niệm không thể nào quên trong cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng trẻ:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim.
“Từ ấy” chỉ mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố Hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong Đoàn Thanh niên cộng sản Huế. Được giác ngộ lí tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ồng đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng, tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.
Từ ấy đã đánh dấu hai chặng đường đời của Tố Hữu khác hẳn nhau, trước từ ấy là cái “ngày xưa” bâng khuâng, quẩn quanh bế tắc trong suốt hành trình dài băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn sau từ ấy là một chần trời rộng mở, cuộc đời nhà thơ bỗng thay đổi đến không ngờ. Một thế giới mới đã mở ra, rộng lớn, chói lọi ánh mặt trời và tràn đầy hương sắc, nó là cái “phút giây thiêng” đã làm cho cuộc đời nhà thơ thay đổi hẳn. Sau này, nhiều lần nhớ lại, ông vẫn còn ngất ngây:
Rồi một hôm nào, tôi nhớ tôi,
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi;
Say đồng hương nắng, vui ca hát,
Trên chín tầng mây, bát ngát trời.
(Nhớ đồng)
Từ ấy quả đúng là giây phút diệu kì và thiêng liêng, bởi sự giác ngộ này không chỉ làm bừng sáng trí tuệ, nhận thức mà còn bừng sáng cả tâm hổn, tình cảm của nhà thơ. Nó như mối duyên đầu của một người thanh niên với cách mạng. Tuổi trẻ vốn giàu ước mơ, giàu khao khát, nay lại được gặp gỡ, được giác ngộ lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đây là sự gặp gỡ kì diệu của hai mùa xuân: mùa xuân của tuổi trẻ và mùa xuân của lí tưởng, của tương lai. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lí chói qua tim. Hình ảnh thơ được đưa ra khá tự nhiên, hổn hậu nhưng đã diễn đạt đúng tâm trạng hân hoan của nhà thơ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng: sự bừng thức của trí tuệ và nhận thức, sự hân hoan, bừng sáng của tâm hồn, tình cảm. Nó giống như trạng thái của một con người đang sống mò mẫm trong đêm đen, bỗng chốc mọi thứ đều rõ ràng, sáng tỏ. Lí tưởng cộng sản như tia nắng ấm áp, tinh khôi, như mặt trời chói lọi dẫn dắt, soi đường cho nhà thơ trên con đường tranh đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống hạnh phúc của giai cấp cẩn lao. Do đó, nó có sức tác động, lôi cuốn mạnh mẽ cả về tư tưởng và tâm hồn mà người thanh niên yêu nước, giàu nhiệt huyết đã đón nhận bằng cả khối óc và trái tim sôi sục, nồng cháy của mình.
Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên niềm vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lí tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ “bừng” và “chói” được sử dụng chính xác, giàu sức gợi. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chần lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. “Chói qua tim” là tác giả muốn nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.
Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Cách so sánh “hồn tôi” như “vườn hoa lá” là một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niểm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Những câu thơ được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấn tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó.
2/ Khổ thứ hai: Những nhận thức mới mẻ về lẽ sống
Khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hổn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hổn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
“Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”: tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc.
Trong khổ thơ này, bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết. Nó cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy, con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng của nhà thơ.
3/ Khổ thứ ba khép lại với sự chuyển biến tình cảm của nhà thơ
Từ thay đổi về nhận thức dẫn đến sự thay đổi về tình cảm.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đấu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ
Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biên trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha” và ‘Vạn đầu em nhỏ” (“vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động; “vạn kiếp phôi pha” là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực; “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang, vất vưởng nay đây mai đó). Điệp từ “đã lấ’ là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đê’ cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để đến với giai cấp vô sản, với tình cảm chân thành và điểu này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những nhà thơ cách mạng, sáng tác phục yụ cho sự nghiệp cách mạng. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ. Các nhà thơ lãng mạn quan niệm:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
(Xuân Diệu)
Nhưng quan niệm của các nhà thơ, nhà văn cách mạng phải là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng:
Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền
(Sóng Hổng)
Hay, như Hồ Chí Minh đã viết:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ củng phải biết xung phong
III. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
– Dùng những hình ảnh nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá để chỉ lí tưởng. Những động từ bừng, chói, những cụm từ: đậm hương, rộn tiếng chim đã được Tố Hữu sử dụng sáng tạo nhằm thể hiện niềm vui sướng tột cùng khi nhà thơ được đứng trong hàng ngũ của những người cộng sản.
– Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hoá, điệp từ, điệp ngữ được tác giả dùng trong bài thơ vừa có tác dụng tạo nên những hình ảnh thơ trong sáng, gần gũi, có sức mạnh lôi cuốn sự chú ý của người đọc, người nghe, lại vừa thể hiện được tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình đang say mê và bị cuốn hút bởi lí tưởng. Đặc biệt, trong bài thơ, cách sử dụng kết hợp các điệp từ, điệp ngữ đã tạo được một nhịp điệu vui tươi, luyến láy, giàu sức biểu cảm. Chính điểu đó tạo nên một phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình chính trị, giàu tính dân tộc, vừa đại chúng, dễ gần, dễ thuộc.
IV. Ý NGHĨA
Bài thơ thể hiện niềm vui lớn, lẽ sống lớn, tình cảm lớn trong buổi đầu bắt gặp lí tưởng cộng sản của nhà thơ.