Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử | Học văn 11
Hàn Mặc Tử là con người tài hoa mà bất hạnh, là “ngôi sao chổi trên bầu thơ Việt Nam” (Chế Lan Viên). Là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt trong phong trào Thơ mới, ông để lại cho đời những vần thơ vừa “điên loạn”, “đau thương” vừa thiết tha, trong sáng. Tiêu biểu cho những vần thơ trong sáng, thiết tha ấy là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ được viết năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đã mắc căn bệnh nan y. Thi phẩm được in trong tập “Thơ điên”, được khơi nguồn cảm hứng từ tấm bưu ảnh mà Hoàng Thị Kim Cúc (cô gái thôn Vĩ mà thi sĩ đã yêu, một tình đơn phương) gửi cho ông. Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn, thể hiện một cách cảm động tấm tình của Hàn Mặc Tử với đời, với người.
Khổ thơ đầu: là bức tranh thôn Vĩ vào buổi bình minh:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Câu thơ mở đầu là câu hỏi : sao anh lại không trở về thôn Vĩ chơi? Đây là câu hỏi tu từ, hỏi không yêu cầu trả lời. Ở đây, nhà thơ tự phân thân ra để tự hỏi mình. Câu hỏi thoáng chút trách móc, hờn giận, nhưng chủ yếu là bộc lộ nỗi lòng nhà thơ. Câu thơ bảy tiếng thì có sáu tiếng đầu liên tục là thanh bằng. Sáu thanh bằng liên tục ấy tạo ra âm hưởng chơi vơi. Có lẽ nỗi nhớ chơi vơi về thôn Vĩ khiến Hàn Mặc Tử đã mở đầu bài thơ bằng âm hưởng chơi vơi ấy. Cuối câu hỏi là một thanh sắc chói gắt, xoáy vào lòng người, làm người đọc cảm nhận được nỗi xót xa, tiếc nuối vì đã không trở về thôn Vĩ thân yêu. Câu thơ bộc lộ rõ nỗi nhớ chơi vơi và niềm xót xa tiếc nuối của thi sĩ khi không có cơ hội trở về thôn Vĩ.
Sau câu hỏi như mời gọi ấy là bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ. Đó là cảnh ở một khu vườn thôn Vĩ vào buổi sáng bình minh, có những ánh nắng đầu tiên của một ngày chiếu dọi lên hàng cau và cả khu vườn ánh lên sắc xanh như ngọc. Cảnh thôn Vĩ được nhìn từ xa nên sự vật đầu tiên mà tác giả trông thấy là “nắng hàng cau” – nắng ban mai chiếu trên hàng cau cao vút. Đó là thứ “nắng mới lên”, thứ nắng gợi ra sự ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. Điệp từ “nắng” hai lần trong câu hai gợi tả một không gian tràn ngập ánh nắng, dường như cả khu vườn đang tắm gội dưới ánh bình minh. Tới gần hơn, nhà thơ nhìn thấy vườn “xanh” “mướt” “như ngọc”. “Mướt” là từ tả độ bóng, sự óng ả, mượt mà tràn đầy sức sống của cây lá trong vườn. Từ cảm thán “quá” như một tiếng reo vui kinh ngạc trước vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Nó lại ánh lên sắc “xanh như ngọc”. Có lẽ, vào buổi sáng sớm, cây lá còn đẫm sương đêm, được ánh nắng dọi lên nên ánh lên long lanh “như ngọc”. Cảnh thôn Vĩ hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ thật gần gũi, thật đẹp, thật trong trẻo, tinh khôi.
Thấp thoáng sau cảnh vật là hình ảnh con người. Con người thôn Vĩ hiện ra với khuôn “mặt chữ điền” – khuôn mặt của người phúc hậu, hiền lành. Khuôn mặt ấy lại thấp thoáng đằng sau “lá trúc” nên càng trở nên duyên dáng, đáng yêu.
Cả khổ thơ một là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ vào buổi bình minh đẹp trong trẻo, tinh khôi, tràn đầy sức sống và con người thôn Vĩ phúc hậu, duyên dáng, đáng yêu. Đằng sau bức tranh có cảnh và người đó, người đọc cảm nhận được tấm lòng yêu đời, yêu người đáng quý của nhà thơ bất hạnh.
Khổ thơ thứ hai : Cảnh dòng sông đêm trăng thôn Vĩ
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Gió – mây là đôi bạn tâm giao trong vũ trụ. Gió thổi đưa mây bay đi, cả hai cùng hướng. đó là quy luật tự nhiên. Nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử thì “gió theo lối gió, mây đường mây”, gió – mây chia lìa đôi nẻo. đây không còn là hình ảnh của thị giác nữa, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa của một con người luôn sợ sẽ phải xa rời trần thế. Mặc cảm ấy đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa. Ở câu hai, “dòng nước” được miêu tả “buồn thiu”. Dòng nước trôi chậm, lững lờ đến tĩnh lặng. “Hoa bắp” thì chỉ “lay” nhẹ, chuyển động khẽ khàng, vô hồn. Cảnh thật tĩnh lặng, mang đậm nỗi buồn, hiu hắt. So với khổ thơ đầu, cảnh ở đây hoàn toàn khác. Nắng tắt, chiều xuống, rồi trăng lên. Câu ba, câu bốn tả cảnh dòng sông có trăng soi chiếu. Chắc trăng sáng lắm nên soi tỏ con thuyền. Thuyền “chở” đầy trăng, cả dòng nước tràn đầy ánh trăng trở thành dòng “sông trăng”. Đêm trăng thật đẹp, thật lung linh, huyền ảo. Thế mà có gì đó nghe da diết mà khắc khoải : “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu hỏi tu từ và động từ “kịp” gợi ra sự chờ đợi đến khắc khoải. Có về “kịp” tối nay không? Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi trong đau khổ ấy sẽ hoàn toàn tuyệt vọng, đau thương. Với các thi nhân, trăng là người bạn thân thiết. Lí Bạch bất chợt bắt gặp ánh trăng ở đầu giường thì nhớ về quê hương (“Tĩnh dạ tứ” – Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh). Bác Hồ của chúng ta ở trong tù có trăng làm bạn (“vọng nguyệt” – Ngắm trăng), khi ra tù làm cách mạng lại có trăng cùng “bàn bạc việc quân” (“Nguyên tiêu” – Rằm tháng giêng)…Còn với Hàn Mặc Tử lúc này, trăng là tri âm tri kỉ, là cứu cánh duy nhất để con người bất hạnh này thoát khỏi cô đơn và mặc cảm chia lìa. Nỗi niềm khắc khoải chờ đợi trăng ấy của nhà thơ khiến người đọc nhận ra khát khao giao cảm với đời, với người của thi nhân.
Khổ thơ cuối: Nếu như khổ một, khổ hai nỗi nhớ chủ yếu hướng về cảnh thì khổ thơ thứ ba lại hướng về con người:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Con người hiện ra trong “mơ” hư ảo, chập chờn. Đó lại là “khách đường xa”, là khách ở nơi xa xôi. Phép điệp lặp lại hai lần cụm từ “khách đường xa” càng tô đậm thêm sự xa xôi, hư ảo.
Đến câu thơ thứ hai, dường như thiếu nữ thôn Vĩ hiện ra rõ ràng hơn trong màu “trắng” của “áo em”. Sắc “trắng” được cực tả “trắng quá” để miêu tả vẻ đẹp trong trắng, trinh khiết của “em”. Nhưng sắc trắng ấy cũng làm tôi “nhìn không ra”. Thì ra là vậy. “Em” vẫn chập chờn, hư ảo quá, xa xôi quá, khó với tới quá. Với tôi, em là như vậy. Niềm đau ấy khiến thi sĩ quay trở lại với thực tại của mình: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây”, nơi tôi đang sống đây, trong cõi lòng tôi đây, thì chỉ còn là “sương khói mờ nhân ảnh”, chỉ còn sự u ám, lạnh lẽo, cô đơn. Cuối bài thơ là một câu hỏi : “Ai biết tình ai có đậm đà?” Tình yêu đơn phương với Hoàng Cúc khiến nhà thơ day dứt, băn khoăn: Không biết, em có biết tình tôi dành cho em đậm đà lắm hay không? Không biết tình cảm của em với tôi có chút gì đậm đà chưa? Câu thơ chứa đựng niềm day dứt mà vẫn rất tha thiết của một con người đang yêu nhưng lại sợ tình yêu không thành. Nó khiến cho người đọc thêm cảm thương cho thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh, yêu say đắm mà suốt đời lại phải sống trong cô đơn, tật bệnh.
Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật so sánh, nhân hóa; thủ pháp lấy động tả tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ và những hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo, Hàn Mặc Tử đã dẫn người đọc trở về với thôn Vĩ thơ mộng, hữu tình; đồng thời thể hiện lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ.