[Ngữ văn 9] Bến quê – tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý
I – GỢI Ý
Tác giả:
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930-1989) sinh tại quê gốc: làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1972).
Vào các năm 1944-1945, Nguyễn Minh Châu học Trường Kỹ nghệ Huế. Năm 1945 ông tốt nghiệp Thành Chung. Tháng 1 năm 1950 ông học chuyên khoa Trường Huỳnh Thúc Kháng (Hà Tĩnh) và sau đó gia nhập quân đội theo học Trường Sỹ quan Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956 ông công tác tại Ban tham mưu tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961 ông theo học Trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962 về công tác tại phòng, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội.
– “Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú và có những thành công đáng trân trọng. Chỉ riêng về lĩnh vực sáng tác, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành đề tài tìm hiểu của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những chuyên luận khoa học trong và ngoài nước. Đọc lại những trang viết của ông, đọc lại những bài viết về ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu còn tiềm ẩn nhiều vấn đề, nhiều gợi ý có khả năng hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm hiểu,
nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận mới”(1).
Tác phẩm:
– Tác phẩm đã xuất bản của Nguyễn Minh Châu gồm nhiều thể loại: Cửa sông (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1967); Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, NXB Văn học, 1970); Dấu chân người lính (tiểu thuyết, NXB Thanh niên, 1972); Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1974); Miền cháy (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1977); Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1977); Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1981); Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1982); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, 1983); Đảo đá kì lạ (viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1985); Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1987); Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, 1987); Cỏ lau (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1989); Trang giấy trước đèn (tiểu luận phê bình, NXB Khoa học xã hội 1994); và nhiều bút ký, truyện ngắn khác đăng trên các báo.
Với những cống hiến xuất sắc của mình trong hoạt động văn học nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã được nhận: Giải thưởng Bộ Quốc phòng (năm 1984-1989); Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 2000).
– Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày, với những chi tiết sinh hoạt đời thường để phát hiện những chiều sâu của cuộc sống với bao qui luật và nghịch lí, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả.
II – GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Ấn tượng khi đọc Bến quê của Nguyễn Minh Châu là ấn tượng về một cái gì đó như là đứng trước “mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”, thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối”. Có cái gì xót xa phôi pha đi trong bóng tối, tha thiết hơn trong cái màu đậm sót lại kia. Nó tự là mình một lần cuối, thức nhận về chảy trôi và kết đọng một lần cuối trước khi hoà vào cái mong manh vĩnh cửu. Giống như hình ảnh Nhĩ khi kết truyện: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy”.
(1) Nguyễn Trọng Hoàn – Nguyễn Minh Châu, về tác gia và tác phẩm – NXB Giáo dục, 2001.
Có khác thường không cái ham muốn cuối cùng của một đời người chỉ là nhờ con sang bến sông ngay bên nhà mình như thế này (?):
“Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:
– Bây giờ con sang bên kia hộ bố…
– Để làm gì ạ?
– Chẳng để làm gì cả. – Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều mình sắp nói ra quá ư kì quặc – Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về”.
Có những sự thực vẫn tồn tại như nghịch lí. Tình huống tự sự của Bến quê, trước hết, độc đáo ở điểm này. Một con người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” khi lâm bệnh nặng không thể đi được nữa mới chợt nhận ra “một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa nhà mình”. Khi có thể tới được Bến quê một cách dễ dàng thì không nghĩ tới, không tới; khi không thể tới được thì lại “say mê”, “ham muốn” – đó là nghịch lí. Ngịch lí ấy nói lên một sự thật là: có khi, cái người ta mơ ước, khát khao, cái người ta không thể có không phải điều gì to tát, lớn lao mà lại là những điều hết sức nhỏ bé, thường tình. Người ta vươn tới chính những giá trị bình dị. Mảnh đất mơ ước ở ngay bến sông quê đây thôi. Cốt truyện của Bến quê thuộc loại “cốt truyện tâm lí”. Tình huống mà ta gọi là nghịch lí trên đây chỉ là nghịch lí trong sự tự ý thức cao độ của nhân vật. Nếu không nhận thức một cách sâu sắc về ý nghĩa đích thực của những cái gần gũi, bình dị, nếu đã không từng đặt chân tới mọi xó xỉnh của trái đất như Nhĩ thì việc chưa từng đặt chân đến cái bến sông cạnh nhà, việc không thể tới được mảnh đất mơ ước quá đỗi gần gụi kia sẽ không khác thường, không nghịch lí, sẽ lại trôi tuột đi như lẽ thường vẫn thế. Tình huống âý là tình huống để nhân vật bộc lộ cái thế giới bên trong, để “phân tích” niềm “mê say đầy đau khổ” của con người đang tiến dần tới hạn mút cuối cùng của sự sống, để thấy được cái giản dị nhưng bền vững của chân lí nhân sinh.
Nghĩa là sức nặng của toàn bộ thiên truyện dồn cả vào sự thể hiện thế giới nội tâm của Nhĩ. Có thể thấy mạch tâm trạng của Nhĩ diễn ra theo hai chặng: trước và sau khi Nhĩ nhờ anh con trai sang sông.
Tác giả không cho chúng ta biết rằng trước khi lâm bệnh Nhĩ làm nghề gì, địa vị xã hội ra sao nhưng bằng vào chi tiết Nhĩ được đi khắp nơi trên thế giới, có thể đoán định được anh là một người có vị trí quan trọng. Nhưng chính cái thời gian Nhĩ ốm liệt giường mới là quãng thời gian quan trọng, có ý nghĩa lớn hơn cả so với cả một đời bôn ba. Khi đó, anh được gần gũi với vợ con, và nhờ vậy lần đầu tiên Nhĩ thấy được tấm áo vá của người vợ cả đời chịu thương chịu khó hi sinh vì chồng. Tình cảnh ốm đau đã kéo anh về với những gì thường tình nhất của cuộc sống. Anh cảm nhận được cái nhẫn nhục đẹp đẽ của vợ mình qua “tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc thang mòn lõm”. Niềm khao khát được khám phá vẻ đẹp của bờ bãi bên kia sông chỉ có thể được nhen lên, day dứt, mãnh liệt khi Nhĩ sống trong cuộc sống đời thường. Cuộc sống ấy đem lại cho anh một cách nhìn, cách nghĩ mới, chân thực, dung dị hơn, đồng thời thôi thúc anh thực hiện ước vọng cuối cùng của cuộc đời, cái mong muốn vốn dễ dàng với người khác, với chính anh khi còn khoẻ mạnh thì giờ đây trở thành thách thức ghê gớm, thậm chí là không thể.
Anh con trai không thể hiểu được đằng sau cái mong muốn “kì quặc” của người cha sắp từ giã cõi đời là cả một câu chuyện mang ý nghĩa triết lí cuộc đời. Giống như Nhĩ đã từng chưa bao giờ nghĩ tới mảnh đất bến quê sông Hồng kề cạnh nhà mình. Chính Nhĩ cũng tự nhận thấy “càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh”. Dường như trong Nhĩ đang diễn ra một cuộc đối chất: cha / con – hiện tại / quá khứ. Con trai anh đang sống những tháng ngày như anh đã từng sống, ham mê những điều như anh từng ham mê và không nhận ra được giá trị của cái bình dị, nhỏ bé nhưng đích thực như anh đã từng không nhận ra.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhiều chi tiết, hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. ở phần đầu truyện là hình ảnh những bông hoa bằng lăng còn sót lại, là màu vàng thau xen lẫn màu xanh non của bãi bồi bên kia sông Hồng, là “những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ”, Khi đứa con trai ra đi để thực hiện hành trình tới bến quê, song hành, Nhĩ cũng thực hiện một hành trình nhọc nhằn, “đau nhức”. Chàng trai trẻ, người có thể thực hiện chuyến sang sông một cách dễ dàng thì đang “chùng chình” bởi những thế cuộc tướng sĩ và không thấy được ý nghĩa của hành trình. Người không còn thời gian nữa thì tự mình chỉ thực hiện được một nửa của hành trình dài một mét từ nệm nằm tới cửa sổ! Những khoảng không gian trong mối liên hệ thời gian như là biểu tượng của nghịch lí bừng ngộ, ở những chặng khác nhau của sự thám hiểm cuộc đời:
“Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài chiếc nệm nằm, anh tưởng mình vừa bay được một nửa vòng trái đất – trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La-tinh hai năm trước đây. Anh mệt lử. Và đau nhức. Ngồi lại nghỉ một chặng và chỉ muốn có ai đỡ cho để nằm xuống…
Lũ trẻ tiếp sức cho anh, giúp anh đi nốt “nửa vòng trái đất” còn lại:
“Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nương nhẹ, giúp anh đi nốt nửa
vòng trái đất – từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm chục phân”.
Đó là ân huệ mà cuộc đời dung dị, hồn nhiên đem lại cho Nhĩ. Anh hướng tới khoảng không gian mơ ước bên ngoài cánh cửa sổ nhờ những bàn tay “chua lòm mùi dưa”. Lại là sự cứu cánh của cái bình dị. “Ngay lúc ấy”, bắt đầu từ lúc Nhĩ được ngồi sát ngay sau khuôn cửa sổ, khi hình ảnh của “cái miền đất mơ ước” hiện ra ngay trước mắt anh, trong con người chất chứa nghịch lí ấy diễn ra dòng suy tưởng sâu sắc. Với ngòi bút sắc sảo, Nguyễn Minh Châu đã khắc hoạ thành công tâm trạng của nhân vật này.
Hình ảnh con đò ngang với cánh buồm nâu bạc trắng hiện ra qua cái nhìn của con người đang khao khát bến bờ cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là “nhịp cầu” nối tới bến quê mơ ước:… “cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khuôn cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bên bờ ở khúc sông Hồng này vừa mời bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước”.
Biết đâu Nhĩ không còn đủ sức để chờ chuyến đò của ngày hôm sau thì sao! Người con trai mang theo “sứ mệnh” thực hiện niềm mơ ước cuối cùng của anh “đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được”. Nó có thể bị nhỡ chuyến đò sang sông. Cả đời Nhĩ đã nhỡ chuyến đò ấy. Trong sự lo lắng, khắc khoải vốn thường trực của một người đang sống những giờ phút cuối cùng, Nhĩ đã ngẫm ra: “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có cái gì hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết”. Người ta khó có thể làm lại được những gì thuộc về quá khứ, không thể đi lại những chuyến đò đã nhỡ. Cái bến quê rất gần, và không khó khăn gì để đến đó, nhưng nếu cứ mắc vào cái mớ “chùng chình” thế cuộc rất có thể ta sẽ không bao giờ đến được.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho hình ảnh Liên – vợ Nhĩ xuất hiện trong dòng suy nghĩ của nhân vật này:… “cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau những ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”.
Liên như là hiện thân của cái bến quê mà Nhĩ đã từng không nhận ra. Nhĩ nhìn thấy tấm áo vá của vợ khi anh đã nhận thức được giá trị của cái gần gũi, bình dị. Sự tần tảo, chịu đựng hi sinh ở Liên cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung. Không phải khi Nhĩ nhận ra những cái đó mới có, nó là vẻ đẹp bền vững muôn đời nhưng chỉ khi Nhĩ ý thức một cách sâu sắc về “bến quê” thì anh mới phát hiện ra nó, cảm nhận được nó. Giống như hình ảnh “từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ” chỉ có thể rõ ràng đến thế khi con đò ngang nối liền với bến quê lại gần bờ bên này, lại gần anh, để Nhĩ có được cảm giác “chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo và chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa”.
Truyện khép lại bằng hình ảnh “chuyến đò ngang mỗi ngày một chuyến… vừa chạm vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này”. Bên này là thị thành, bên kia là bến quê. Bên này chông chênh xói lở, bên kia vững vàng bồi đắp. Sự tương phản này như một lời cảnh tỉnh về nhận thức, ý thức giữ gìn những giá trị bình dị, vẻ đẹp của cái thân tình, gần gũi, để người ta không phải thảng thốt bởi “những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ”.
Giống hoa bằng lăng nhợt nhạt từ khi mới nở bỗng cháy thẫm lên những bông cuối cùng như xác nhận xót xa trước cái mong manh chảy trôi của tạo hoá. Nhĩ muốn con trai mình không lặp lại con đường tới những giá trị đích thực như anh đã trải qua. Day dứt, trăn trở như thế âu cũng còn lại được gì đó khi nằm xuống để những tảng đất đổ ập xuống chốn không cùng.
🔻 Xem thêm:
Chủ đề:Bến quê, bến quê (truyện ngắn 1985) full, Bến quê dốc, Bến quê full, Bến quê lớp 9, Bến quê sáng tác nằm nào, Bến quê SGK, Các nhân vật trong Bến quê, Nghị luận về Bến quê, phân tích những ngôi sao xa xôi, Phân tích tình huống truyện Bến quê, Tóm tắt Bến quê, Truyện ngắn Bến quê mang màu sắc như thế nào