
MỘT SỐ ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC TRONG BÀI THI VÀO 1O
THAM KHẢO MỘT SỐ ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC TRONG BÀI THI VÀO 1O
1/ Tình thương con của ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”
(1)Người đọc sẽ nhớ mãi hình ảnh của một người cha, người chiến sĩ cách mạng xúc động dang hai tay chờ đón đứa con gái bé bỏng, duy nhất của mình vào lòng sau tám năm xa cách. (2) Mong mỏi ngày trở về, nóng lòng được nhìn thấy con, được nghe con gọi tiếng “ba” thân thương nhưng ông Sáu đã thực sự rơi vào hụt hẫng khi bé Thu không nhận ra ông là cha mà còn hoảng sợ, bỏ chạy, ông đau đớn đến tột cùng “mặt sầm lại, hai tay buông thõng xuống như bị gẫy”. (3) Ông không thể ngờ rằng chính chiến tranh vừa là nguyên nhân trực tiếp, vừa là nguyên nhân gián tiếp gây nên nỗi đau ấy – bé Thu không nhận ra ông là cha chỉ vì trên mặt ông có vết thẹo không giống với người đàn ông trong bức hình chụp chung với má của nó. (4) Ba ngày phép ngắn ngủi ở nhà, ông chẳng đi đâu xa, cố gắng gần gũi, vỗ về con để bù đắp cho con những ngày xa cách nhưng thật trớ trêu, bé Thu đã không nhận ra ông là cha mà con khước từ một cách quyết liệt. (5) Trước thái độ ương bướng của con, ông không nỡ giận vì nó còn quá nhỏ để hiểu ra những éo le, khắc nghiệt của đời sống cho nên ông chỉ nhìn con, khe khẽ lắc đầu cười bởi có lẽ khổ tâm quá không thể khóc được. (6) Người đọc những tưởng người cha ấy sẽ ra đi mãi mãi mà không được nghe con gọi một tiếng “ba” nhưng thật bất ngờ, đến tận giây phút cuối cùng, khi không còn thời gian để ở bên con nữa thì ông lại được nghe con gọi ba và bộc lộ những tình cảm mãnh liệt. (7) Trước sự vồ vập, cuống quýt, hối hả xen lẫn cả sự ân hận của con, ông Sáu đã xúc động đến rơi nước mắt, đó là những giọt nước mắt của niềm vui sướng và hạnh phúc đến tột độ. (8) Cái tình của người cha dành cho con càng được bộc lộ mãnh liệt hơn trong những ngày ông Sáu trở về khu căn cứ. (9) Nỗi ân hận vì đã trót đánh con luôn dằn vặt tâm trí ông, ông dồn hết cả tình yêu thương con vào việc làm chiếc lược để thực hiện lời hứa với con. (10) Chiếc lược bằng ngà voi mà ông Sáu đã cố công, tỉ mỉ làm đã trở thành một kiệt tác – kiệt tác của tình yêu thương, là nơi ông Sáu kí thác tất cả tình yêu, lòng mong nhớ của mình dành cho đứa con gái bé bỏng. (11) Trước lúc hi sinh, không thể trăng trối được điều gì, chỉ có tình cha con là không thể chết, ông Sáu đã dồn hết tàn lực, đưa tay vào túi áo, móc ra cây lược và nhìn người đồng đội, chỉ đến khi bác Ba hiểu ý, gật đầu và hứa sẽ trao tận tay cây lược cho con gái thì ông Sáu mới yên lòng nhắm mắt đi xuôi. (12) Như vậy, có thể nói, tình cảm sâu nặng của ông Sáu dành cho con đã được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất chân thực và cảm động, gây xúc động lâu bền trong lòng người đọc.
Chú thích:
—–: câu bị động
====: phép thế
2/ Tình thương ba của bé Thu trong truyện “Chiếc lược ngà”
(1)Tình thương ba sâu sắc, chân thành, mãnh liệt của bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện một cách cảm động, gây ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. (2) Trước hết, tình cảm ấy được thể hiện ngay cả khi bé Thu chưa nhận ra ông Sáu là ba. (3) Suốt tám năm ròng, Thu chỉ biết ba qua tấm hình chụp chung với má, đó là người ba không có vết thẹo dài ở trên mặt cho nên khi ông Sáu trở về, mang trên mình thương tích của chiến tranh là vết thẹo dài bên má phải thì Thu đã hoảng sợ, bỏ chạy mặc cho ông Sáu vô cùng thất vọng, đau đớn . (4) Suốt ba ngày phép ngắn ngủi, dù ông Sáu cố gắng gần gũi, vỗ về, mong Thu gọi ông một tiếng “ba” nhưng Thu kiên quyết không gọi thậm chí còn có những phản ứng quyết liệt: nói trổng, tự mình chắt nước cơm – một công việc quá sức, thậm chí là hất văng cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho nó. (5) Những hành động ương bướng, có phần ngang ngạnh của bé Thu thực ra không đáng trách mà lại đáng thương bởi em còn quá nhỏ để nhận ra những éo le, khắc nghiệt của đời sống và hơn thế nữa thái độ kiên quyết cự tuyệt của em lại chính là biểu hiện của tình yêu cha thắm thiết, tình yêu độ tôn thờ cho nên em chỉ nhận và yêu người cha trong bức hình chụp chung với má. (6) Tình yêu thương bé Thu dành cho ba càng sâu sắc và mãnh liệt hơn khi em nhận ra ông Sáu chính là ba mình – là người tám năm nay em khát khao chờ đợi. (7) Trong đêm về nhà bà ngoại, được bà giảng giải về vết thẹo trên gương mặt ba, Thu nằm thở dài, lăn lộn như người lớn. (8)Có vẻ như, suốt đêm trằn trọc, Thu không ngủ được là bởi ân hận vì đã trót đối xử không tốt với ba, nuối tiếc vì thời gian bên ba không còn nữa, thương ba và căm giận chiến tranh đã làm nên vết thẹo trên gương mặt ba. (9) Buổi sáng chia tay ba lên đường trở về khu căn cứ, thái độ và hành động của bé Thu đã hoàn toàn đổi khác : không còn vẻ cau có, ngang ngạnh như thường ngày, nó xuất hiện với vẻ mặt buồn, đôi mắt nghĩ ngợi sâu xa. (10) Và trong giây phút không ai ngờ đến nhất, Thu đã cất tiếng gọi “ba”, tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, đó là tiếng ba nó gìn giữ bao nhiêu lâu nay, tiếng ba vỡ tung ra từ đáy lòng nó. (11) Vừa kêu, Thu vừa có những hành động cuống quýt, hối hả xen lẫn cả sự ân hận: chạy xô tới nhảy thót lên người ba, hai tay ôm chặt lấy cổ ba, hai chân quặp chặt lấy người ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc , hôn vai, hôn cổ, hôn lên cả vết thẹo dài – vết thẹo bấy lâu nay nó ghê sợ. (12) Như vậy, có thể thấy, bằng tài năng miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thật cảm động tình yêu cha mãnh liệt của bé Thu, qua đó giúp ta cảm nhận được rõ hơn tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le khắc nghiệt của chiến tranh và giúp ta biết trân trọng hơn hạnh phúc gia đình mà ta đang có.
3/ Vẻ đẹp của con người lao động trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
(1)“Đoàn thuyền đánh ca” của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con người lao động mới hăng say, khỏe khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. (2)Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi khép lại một ngày với “mặt trời xuống biển”, “sóng cài then, đêm sập cửa” thì con người lại bắt đầu công việc của mình – ra khơi đánh cá. (3) Đó là một công việc thường nhật, đã trở thành nếp sinh hoạt của người dân chài.(4)Trên con thuyền ra khơi, họ mang theo âm hưởng tiếng hát hào hùng và sôi nổi“ Câu hát căng buồn cùng gió khơi”, tiếng hát như có sức mạnh thổi căng cánh buồm đẩy con thuyền chạy nhanh ra khơi , hình ảnh ẩn dụ thật đẹp đã nói lên niềm vui và sự hăng say đối với công việc lao động của những người dân chài. (5) Giữa bao la trời nước, con người hiện lên với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn trong tư thế làm chủ cuộc đời, làm chủ quê hương, đất nước: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/Lướt giữa mây cao với biển bằng”. (6)Lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm, và giữa khoảng không bao la của vũ trụ vô tận ấy, trên thì có “mây cao”, dưới thì có “biển bằng”, cả đoàn thuyền “lướt” ra tận khơi xa để mà dò bụng biển tìm luồng cá, để mà bủa lưới vây giăng. (7) Vẫn là vũ trụ vô cùng vô tận, nhưng con người không còn cảm giác bé nhỏ mà ngược lại, họ đã tự nâng mình lên ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ trong tư thế của người chiến thắng. (8) Hình ảnh người dân chài không được trực tiếp miêu tả nhiều trong bài thơ, họ chỉ được đặc tả ở một hình ảnh duy nhất, trong dáng vẻ người lao động : “ Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. (9) Chỉ một hình ảnh đó thôi cũng giúp ta hình dung được vẻ đẹp cường tráng, khỏe mạnh, ăn sóng nói gió của người dân chài. (10) Trong suốt hành trình của cuộc ra khơi, tiếng hát phấn chấn, tràn đầy lạc quan vẫn không ngừng vang lên, hát lúc ra khơi, trong lao động và cả khi thắng lợi trở về, câu hát ngân nga, khỏe khoắn trở thành hình ảnh ẩn dụ cho khí thế hứng khởi và niềm lạc quan, yêu đời của người lao động, tiếng hát ấy làm cho công việc lao động nặng nhọc trở nên nhẹ nhàng và đầy chất thơ. (11)Sau một đêm lao động vất vả, họ vẫn giữ được khí thế náo nức, hăng say: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Một hình ảnh thơ đẹp và đầy sức gợi, “chạy đua cùng mặt trời” cũng có nghĩa là họ đang tiếp tục đua cùng với thiên nhiên, cùng thời gian để làm giàu cho Tổ quốc. (12) Hình ảnh người dân chài hiện lên thật đẹp, họ là đại diện cho vẻ đẹp của người lao động thời đại mới trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời, bài thơ là bài hùng ca về người lao động.
4/ Bức tranh thiên nhiên trong Đoàn thuyền đánh cá
(1)“ Đoàn thuyền đánh cá ” không chỉ khắc họa thành công hình tượng con người lao động mà còn vẽ lên bức tranh sơn mài vừa hùng vĩ , tráng lệ, vừa lung linh, huyền ảo và rực rỡ, tươi sáng của biển Hạ Long. (2) Mở đầu bài thơ là một hình ảnh đẹp, kì vĩ, tráng lệ về cảnh biển Hạ Long khi hoàng hôn vừa buông xuống:“ Mặt trời xuống biển như hòn lửa – Sóng đã cài then đêm sập cửa” . (3)Phép so sánh “mặt trời” như “hòn lửa” đã gợi bao liên tưởng thú vị cho người đọc, sắc đỏ rực như lửa cháy của mặt trời hòa hợp với sắc xanh của biển tạo nên gam màu thật rực rỡ cho bức tranh sơn mài , mở ra một khung cảnh huy hoàng và tráng lệ.(4) Nhà thơ khéo léo vận dụng nghệ thuật nhân hóa qua hai từ “ cài”, “sập” để biến những con sóng trở thành chiếc then cài ,màn đêm là cánh cửa để khép lại ngôi nhà vũ trụ, nhờ thế, biển vốn là thách thức và bí ẩn với con người giờ đây đã trở nên vô cùng thân quen và gần gũi. (5) Dưới đêm trăng, biển lại hiện lên thật lung linh và huyển ảo, thiên nhiên biển khơi là những đêm trăng đẹp: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng” , câu thơ đầy ắp những hình ảnh của thiên nhiên , đó là một không gian biển khơi mênh mông, khoáng đạt , có gió lồng lộng thổi, có ánh sáng vằng vặc của vầng trăng, từng đám mây trôi nhè nhẹ trên tầng không , có mặt biển biếc xanh sâu thẳm.(6) Vẻ đẹp của biển được tô điểm thêm bởi sắc màu của các loài cá quý chốn biển khơi: chim, thu, nhụ, đé, song. (7) Hình ảnh ẩn dụ “ Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” và hình ảnh nhân hóa “ Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thể hiện cái nhìn tinh tế và giàu liên tưởng của tác giả khiến biển đêm hiện lên như một bức tranh rực rỡ với những mảng màu lung linh đậm sắc. (8)Đêm trên biển được tác giả miêu tả thật đặc biệt “ Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” , màn đêm giống như một sinh thể khổng lồ, tiếng thở của đêm là tiếng thì thào của sóng – một hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao in dưới mặt nước nhưng dưới cái nhìn của nhà thơ thì đó là sao đang lùa sóng nước Hạ Long. (9) Đây quả là một hình ảnh lạ, một sự sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận làm cho cảnh biển đêm thật sinh động. (10) Bình minh lên, vẻ đẹp của biển khơi lại được khắc họa trong ánh mặt trời, trong sắc màu lộng lẫy của cá – nhưng là cá trong khoang thuyền với “ Vẩy bạc, đuôi
vàng lóe rạng đông” không phải cá dưới biển khơi. (11)Hình ảnh “mặt trời đội biển” nhô lên trên sóng nước xanh lam thật đẹp, hùng vĩ và tráng lệ, dưới ánh sáng của vầng thái dương, mắt cá tựa như triệu triệu mặt trời nhỏ li ti, lấp lánh; thành quả lao động thêm rực rỡ, huy hoàng.(12 )Bằng bút pháp lãng mạn đan xen với hiện thực , nhà thơ đã khắc hoạ thành công bức tranh về thiên nhiên nơi biển cả ,những hình ảnh thiên nhiên hiện ra vừa bình dị vừa đẹp tươi thơ mộng,chắc chắn phải có một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu thiên nhiên tha thiết, Huy Cận mới sáng tạo nên những vần thơ tuyệt bút như vậy.
6/ Sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động trong bài ĐTĐC
(1)Bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã thể hiện thật hay sự gắn kết hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động trong thời đại mới. (2) Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, biển Hạ Long hiện lên thật rực rỡ, huy hoàng và tráng lệ: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa – Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. (3)Cảm hứng vũ trụ quen thuộc cùa thơ Huy Cận với những so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú vị: mặt trời như một hòn lửa đỏ rực khổng lồ, những lượn sóng dài như những then cài, đêm tối bao trùm trời đất như hai cánh cửa vĩ đại đang sập lại đã biến vũ trụ thiên nhiên như một ngôi nhà vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho con người. (4)Từ đó, tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. (5) Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi, bắt đầu công việc đánh cá không ít khó khăn vất vá. (6)Đó là khí thế hăm hở và đầy hào hứng của những con người yêu nghề, yêu biển. (7)Cảm hứng lãng mạn khiến nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình. (8) Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trên biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao, kì vĩ và ngang tầm vũ trụ: “ Thuyền ta lái gió với buồm trăng – Lướt giữa mây cao với biển bằng”, một con thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái, còn trăng là cánh buồm, gợi lên sự nhịp nhàng, hòa quyện của đoàn thuyền với biển trời. (9)Tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vu trụ, hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới niềm vui. (10)Nhưng đây không phải là cuộc du ngoạn bằng thuyền mà đây là một cuộc chiến đấu thực sự, “ dàn đan thế trận ”để giành lấy từ bàn tay thiên nhiên những của cải, tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con người. (11)Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên. (12)Màu cá trong đêm trăng dưới nước “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, sắc cá dưới khoang thuyền dưới ánh mặt trời “Vẩy bặc đuôi vàng lóe rạng đông” đã tạo cho bức tranh thiên nhiên những nét vẽ đẹp, những gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ. (13)Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ngợi ca những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. (14)Công việc lao động đánh cá của ngư dân Quảng Ninh trên biển Hạ Long được miêu tả trong sự thống nhất hòa quyện với thiên nhiên trời biển, trăng sao bát ngát, kì vĩ và bay bổng. (15)Cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ hòa hợp với cảm hứng lao động đã tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
7/ Cảm nhận khổ thơ 3,4 bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì pheo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
(1)Tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm coi thường hiểm nguy, gian khổ của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn được thể hiện thật hay trong khổ thơ 3,4 “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. (2) Ngồi trên những chiếc xe không còn kính, người lính phải đối mặt với biết bao khó khăn, nguy hiểm mà điển hình hơn cả là gió bụi và mưa rừng. (3) Bụi Trường sơn không phải bụi bay lên nhè nhẹ trong không trung mà là cái bụi phun thành rồng, thành cuộn nên mới “Bụi phun tóc trắng như người già”; mưa Trường Sơn không phải mưa mỏng nhẹ giăng giăng mà là mưa mạnh, bất ngờ, ào ào đổ xuống như tuôn như xối, ngồi trong xe mà như ngồi ngoài trời vậy. (4)Thế mà, với những người lính khó khăn ấy có là gì, các anh coi thường nó, chấp nhận nó như một lẽ đương nhiên. (5)Điệp ngữ “ ừ thì ” thể hiện sự tất yếu đã biết, là một lẽ tất nhiên đã lường trước được, nó như một tiếng “ mặc kệ” vang lên , biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. (6)Bụi chỉ làm trắng tóc người lính trẻ, chỉ gây chuyện vui, chuyện buồn cười; mưa chỉ làm mát những chặng đường dài, trôi tuột đi bụi bặm trên tóc trên da, các anh có nề hà gì đâu, gian khổ không làm các anh chùn bước mà càng lạc quan phơi phới. (7)Các anh “chưa cần rửa” khuôn mặt lấm lem, “chưa cần thay” bộ quần áo ướt sũng bởi các anh đặt nhiệm vụ “ lái trăm cây số nữa” lên hàng đầu với một niềm tin “ Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”. (8) Giọng điệu ngang tàng, bất chấp gian khổ thể hiện rõ trong cấu trúc lặp lại: “Không có kính… ừ thì… , Chưa cần…” và ở những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. (9)Gió, bụi, mưa,… có thể gây bao khó khăn, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hóa cái không bình thường đó và vượt lên với tất cả sự cố gắng cùng tinh thần trách nhiệm rất cao, các anh chấp nhận gian khổ như một tất yếu, một lẽ thường tình. (10) Không chỉ mang vẻ đẹp kiên cường, những chiến sĩ lái xe còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn, lạc quan, rất gắn bó với đồng đội. (11) Khuôn mặt phủ đầy bụi đường lấm lem mà họ: “Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, tiếng cười hào sảng vang lên giữa núi rừng Trường Sơn bạt ngàn như một thái độ ngạo nghễ xem thường gian khổ, vượt lên trên cái khốc liệt của chiến tranh, đó là tiếng thơ, tiếng cười của một thế hệ trẻ tuổi. (12)Hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn hiện lên thật đẹp dưới ngòi bút trẻ trung, tinh nghịch của nhà thơ, các anh mãi là hình tượng đẹp về thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
8/ Cảm nhận khổ thơ cuối BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH – Phạm Tiến Duật.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
(1)Vẻ đẹp của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn với ý chí quyết tâm giải phóng Miền Nam đã được thể hiện thật hay trong khổ thơ cuối khép lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính. (2)Hình ảnh chiếc xe bị bom đạn Mĩ phá đến biến dạng một lần nữa xuất hiện góp phần khắc họa rõ nét hình ảnh người chiến sĩ lái xe dũng cảm: Không có kính rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước. (3)Chiến tranh càng ngày càng ác liệt, những chiếc xe “từ trong bom rơi” cũng ngày càng trơ trụi. (4)Điệp ngữ không có được nhắc lại ba lần kết hợp với các hình ảnh liệt kê kính, đèn, mui xe, thùng xe như làm tăng thêm sự biến dạng của những chiếc xe, làm tăng thêm sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh. (5)Nó vừa là một từ phủ định nhưng lại mang tính khẳng định cho những nguy hiểm cao độ với tính mạng của những người lính lái xe và ranh giới giữa sự sống – cái chết lại càng trở nên mong manh. (6)Thế nhưng, “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”, câu thơ đã phần nào lột tả ý chí chiến đấu vì miền Nam của những người lính lái xe đẩy can đảm. (7)Phó từ “ vẫn” chỉ sự tiếp diễn thể hiện ý chí quyết tâm phi thường của người lính, dù phải chịu bao nguy hiểm, khó khăn, họ cũng không lùi bước.(8) Câu thơ cuối đã lí giải vì sao chiếc xe ngày càng hỏng hóc biến dạng mà vẫn có thể tiếp tục chạy, ấy là vì : “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. (9)Giữa muôn vàn cái khó khăn, thiếu thốn, cái “không có” của những chiếc xe là một cái “có” đầy ý nghĩa, cái “có” đó là trái tim rực lửa, sẵn sàng hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của những người lính. (10)Trái tim vừa là hình ảnh hoán dụ để chỉ người lính, vừa là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cho những lí tưởng cao đẹp, sống cống hiến hết mình vì nhiệm vụ cao cả với non sông, đất nước của các anh. (11)Hình ảnh trái tim kết hợp với từ “chỉ”, “một ” như nhấn mạnh trái tim yêu nước chính là điều quan trọng nhất để người lính hướng về miền Nam phía trước.(12) Tấm lòng yêu nước của người lính trên chuyến xe lao ra mặt ra mặt trận là truyền thống yêu nước của dân tộc thật đáng yêu quý và cảm phục biết bao!
9/ Viết đoạn văn quy nạp khoảng 12 câu nêu cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng Lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long. Trong đoạn có sử dụng phép thế và câu cảm thán.
Bài làm
Anh thanh niên 27 tuổi sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm suốt tháng làm bạn với cây cỏ và sương núi Sa Pa. Tại đó, anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu với công việc cụ thể là đo nắng, đo mưa, đo gió, tính mây, đo chấn động mặt đất gửi thông tin dự báo thời tiết phục vụ sản xuất và chiến đấu, một công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ và chính xác đến cao độ. Vượt lên trên hoàn cảnh sống gian khổ, khắc nghiệt, ở anh tỏa sáng nhiều vẻ đẹp đáng quý. Trước hết, ta thấy anh là một người có những suy nghĩ rất đẹp. Anh luôn trăn trở về trách nhiệm của bản thân mình với cuộc đời, ý thức về vai trò của mỗi cá nhân với đời sống chung “Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu? Mình vì ai mà làm việc?”. Đất nước có chiến tranh, anh làm đơn xin ra trận không được, anh trở về công tác trên đỉnh núi cao, cống hiến tài sức của mình cho đất nước. Anh lại có những suy nghĩ rất đúng đắn về công việc “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”. Và quan niệm của anh về hạnh phúc cũng thật khiến ta cảm phục, với anh, hạnh phúc tức là được cống hiến, được làm việc có ích cho cuộc đời cho nên khi biết nhờ phát hiện kịp thời của mình mà không quân bắn rơi nhiều máy bay Mĩ trên bầu trời Hàm Rồng, anh cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Bên cạnh những suy nghĩ đẹp, ở anh còn có những hành động rất đẹp. Anh rất yêu công việc và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Sống một mình trên đỉnh núi cao, không ai đôn đốc nhắc nhở nhưng anh vẫn luôn hoàn thành tốt công việc của mình. Nửa đêm, đúng giờ “ốp” thì dù mưa gió, bão tuyết, anh vẫn xách cây đèn ra vườn làm nhiệm vụ, và khi trở vào thì “không tài nào chợp mắt được nữa”. Anh luôn biết tổ chức, sắp xếp công việc của mình một cách khoa học, hợp lí, làm việc rất nghiêm túc nên anh rất thành thạo và có kinh nghiệm trong công việc “Nhiều đêm không nhìn máy, cháu nhìn trời, thấy sao nào còn, sao nào mất, nhìn gió lay lá là có thể đoán được thời tiết”. Tuy sống một mình nhưng anh không cô đơn bởi anh biết làm vui cho cuộc sống của mình bằng việc trồng hoa, nuôi gà, đọc sách. Không chỉ dừng lại ở đó, anh thanh niên còn có phong cách sống rất đẹp. Anh sống cởi mở và chân thành với tất cả mọi người, anh nhiệt tình chào đón những vị khách mới quen, sẵn sàng chia sẻ với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc của mình. Anh rất khiêm tốn và thành thực, anh từ chối lời mời phác họa bức chân dung anh vì anh cho rằng những đóng góp của mình còn nhỏ bé và anh nhiệt tình giới thiệu với ông họa sĩ những người anh cho rằng đáng vẽ hơn anh. Dù chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc ngắn ngủi của truyện nhưng anh thanh niên đã toát lên những vẻ đẹp đáng quý trong suy nghĩ, tâm hồn và tình cảm, những vẻ đẹp của anh thật đáng quý trọng biết bao nhiêu!
10/ Khổ 1 bài Viếng lăng Bác
Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện thật hay dòng cảm xúc của tác giả khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác. Cách vào đề thật gần gũi giản dị, nhà thơ đã khéo léo giới thiệu được vị trí không gian quãng đường từ miền Nam xa xôi ra viếng Bác: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Tiếng “ con” mở đầu bài thơ cất lên thật gần gũi, thân thương. Đó là cách xưng hô rất mật thiết của người dân Nam Bộ, đã bộc lộ sâu sắc lòng ngậm ngùi thương nhớ của nhà thơ, của đồng bào miền Nam đối với Bác, cách xưng hô ấy đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân. Nhà thơ dùng từ thăm thay cho từ viếng như cố ý muốn quên đi cảm giác tiếc thương, đau buồn và hình dung Bác như còn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Ấn tượng đậm nét đầu tiên của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác là hình ảnh hàng tre: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát/ Ôi ! hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hiện lên trong sương khói quảng trường Ba Đình lịch sử là hình ảnh hàng tre xanh bát ngát – hình ảnh thực chỉ hàng tre thân thuộc chốn làng quê Việt Nam khiến lăng Bác vừa trang nghiêm lại vừa gần gũi. Câu cảm thán Ôi! đã biểu hiện xúc động pha lẫn niềm tự hào khôn xiết của tác giả. Hình ảnh hàng tre còn mang nét nghĩa ẩn dụ chỉ phẩm chất cốt cách con người Việt Nam, đó là sức sống kiên cường bền bỉ, rời rợi sắc xanh như cây tre luôn tươi tốt giữa đất đai khô cằn sỏi đá. Thành ngữ “bão táp mưa sa” kết hợp hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” đã khắc họa vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam trong muôn vàn khó khăn, thử thách. Tre mang bao phẩm chất của con người Việt Nam: mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất. Dấu hiệu hàng tre đầu tiên ở nơi Bác cũng là dấu hiệu của dân tộc Việt Nam, bởi Bác cũng chính là biểu hiện Việt Nam, tiêu biểu cho con người Việt Nam hơn bao giờ hết. Hàng tre xanh ấy được trồng xung quanh lăng Bác như muốn thay cả dân tộc Việt Nam canh giấc ngủ ngàn thu cho Người. Tình cảm của nhà thơ và của đồng bào miền Nam khi về với Bác thật chân thành, xúc động biết bao!
11/ Khổ 2 bài Viếng lăng Bác
Đoạn thơ đã thể hiện nỗi xúc động thiêng liêng xen lẫn niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Hai câu thơ đầu tiên với hình ảnh mặt trời thực và ẩn dụ sóng đôi với nhau đã thể hiện thật hay những suy ngẫm, cảm xúc của Viễn Phương với Bác. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng ngày ngày đi qua trên lăng và “Một mặt trời trong lăng rất đỏ”- hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ vĩ đại. Nếu như vầng mặt trời kì vĩ ở trên cao là cội nguồn của ánh sáng, sự sống trên trái đất thì Bác chính là mặt trời của dân tộc, là người đem đến ánh sáng, niềm vui, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hình ảnh mặt trời thiên nhiên được nhân hóa qua từ đi và thấy đang ngày ngày chiêm ngưỡng vầng mặt trời trong lăng với niềm ngưỡng mộ và thán phục đã khẳng định hơn nữa vị trí, vai trò của Bác trong lòng dân tộc. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” không chỉ gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn mà còn gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác, người cha già kính yêu của dân tộc. Hòa nhập vào “dòng người” đến lăng viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi, thành kính và nghiêm trang. Dòng người đông đúc, chẳng khác nào một “tràng hoa” muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất về đây thăm Bác. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” rất đẹp, nó như muốn nói mỗi người dân Việt Nam như một đóa hoa đang nở rực rỡ dưới ánh mặt trời của Bác đã về đây kính dâng lên Người những gì tinh túy nhất của cuộc đời, lời thơ diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại. Chữ “dâng” chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tình nghĩa. Nhà thơ không nói “bảy chín tuổi” mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, cách nói ẩn dụ gợi ý nghĩa cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân, Bác đã đem về mùa xuân cho đất nước, cho cuộc đời. Lời thơ chân thành, giản dị đã bộc bạch bao tình cảm yêu mến, nhớ thương của viễn Phương và cũng là của nhân dân miền Nam với Bác.
12/ Khổ 3 bài Viếng lăng Bác
Khổ thơ thứ ba đã diễn tả cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài của Bác. Bao tình cảm dồn nén bấy lâu nay gặp bóng hình thân thương bỗng trào lên thổn thức: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên / Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”. Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng khiến tác giả hình dung đó là ánh trăng của đất trời vốn là tri kỉ tri âm của Bác. Bác như đang nằm ngủ một giấc ngủ “bình yên”, trong một khung cảnh thơ mộng, Bác chỉ tạm nghỉ ngơi sau một hành trình dài vất vả, gian nan. Lời thơ lại một lần nữa như nén nỗi đau lại để khẳng định rằng Bác vẫn còn sống mãi. Bác vốn yêu trăng, trăng làm bạn với Bác vào trong nhà lao, trăng theo Bác lên đường ra chiến dịch và trăng lại về đây để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền bao bọc giấc ngủ của Bác đã gợi cho ta cảm nhận về vẻ đẹp thanh cao, giản dị của Bác, một tâm hồn luôn yêu và gắn bó với thiên nhiên. Nhìn “Bác ngủ “, nhà thơ đau đớn, xúc động “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi / Mà sao nghe nhói ở trong tim? ” . Trong trái tim đầy yêu thương, kính trọng và biết ơn của mọi người, Bác như còn sống mãi nhưng lí trí thì lại phải tỉnh táo để nhận thức rằng Bác đã đi xa. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” như muốn nói Bác đã vĩnh viễn hóa thân vào bầu trời của dân tộc, sự nghiệp của Người mãi mãi vang vọng với non sông thế nhưng nỗi đau vẫn không dừng lại. Cụm từ “nghe nhói” đã diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ, nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi hình dung nỗi đau không chỉ cảm được mà còn nghe thấy được, nỗi đau như giằng xé, day dứt khôn nguôi. Lời thơ tựa như tiếng khóc nghẹn ngào của đứa con xa về muộn bên di hài người cha kính mến.
13/ Khổ 4 bài Viếng lăng Bác
Khổ thơ cuối nói lên niềm lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ khi phải trở về miền Nam. Đến giờ phút chia tay, sắp phải chia xa người cha già kính mến, trong lòng nhà thơ trào dâng bao nỗi niềm xúc động. Lòng thương nhớ bấy lâu đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. “Mai về miền Nam” – đang ở giây phút hiện tại, nghĩ về lúc phải chia xa, bao nỗi nhớ niềm thương lại dâng lên tràn đầy, không thể nào kìm nén. Câu thơ giống như một lời giã biệt, cụm từ “thương trào nước mắt” cho ta thấy nỗi xúc động mãnh liệt của nhà thơ, nước mắt ấy là giọt nước mắt của nhớ thương, của khao khát được ở lại mãi bên Người, giọt nước mắt nhớ thương của người con về thăm cha muộn màng nhưng sâu nặng biết bao. Dù có lưu luyến, có bịn rịn, không muốn rời xa Bác thì cũng đến lúc phải trở về miền Nam, nhà thơ chỉ có thể gửi lòng mình ở lại bằng cách hóa thân vào cảnh vật bên lăng Bác. Nhà thơ muốn hóa thân làm “con chim hót” để cất tiếng hót đem lại chút tươi vui rộn rã cho Người, muốn làm “đóa hoa” tỏa hương sắc nơi Người yên nghỉ và đặc biệt, muốn làm “cây tre trung hiếu” để nhập vào hàng tre bên lăng, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Điệp ngữ muốn làm và các hình ảnh liệt kê đã tạo nên nhịp điệu thơ dồn dập, diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ cũng như của toàn thể dân tộc Việt Nam với Bác. Một lần nữa hình ảnh cây tre lại xuất hiện tạo kết cấu đầu cuối tương ứng mang đến một ý thơ mới mẻ: cây tre trung hiếu là hình ảnh ẩn dụ cho lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung của dân tộc Việt Nam suốt đời đi theo lí tưởng của Người. Kết thúc bài thơ là sự xa cách về không gian địa lí nhưng lại gần gũi trong ý chí và tình cảm, bài thơ từ đây kết thúc nhưng tâm sự nhà thơ lại vút cao, một nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, những nỗi niềm tự nguyện về cuộc đời mình để xứng đáng với Con Người khiêm nhường và vĩ đại. Đó cũng chính là nỗi niềm của muôn triệu con tim Việt Nam với Bác.
13/ Khổ 1 bài Sang thu
Khổ thơ đầu tiên bài “Sang thu” đã diễn tả sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về thiên nhiên, đất trời trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu trong một không gian gần và hẹp. Không như những nhà thơ khác cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá khô xào xạc, Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu bằng một hương vị đặc biệt – đó chính là hương ổi: Bỗng nhận ra hương ổi / Phả vào trong gió se. Cụm từ “Bỗng nhận ra” diễn tả rất đúng cái cảm giác ngỡ ngàng, ngạc nhiên khi tác giả bất chợt nhận ra hương vị nồng ấm của hương ổi nơi làng quê mộc mạc. Giữa những âm thanh, màu sắc và hương vị đặc trưng của mùa thu đang lan toả, chỉ có hương ổi làm nhà thơ bất chợt xao lòng. Đó là một thứ hương vị không dễ dàng nhận ra bởi lẽ hương ổi không phải một hương thơm ngào ngạt, nồng nàn, mà nó thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu nhưng cũng đủ đánh thức xúc cảm trong lòng người. Động từ “phả” cho thấy hương ổi không chỉ lan toả mà còn vận động rất mạnh trong không gian, theo làn gió se se lạnh đưa hương đi khắp chốn. Cùng với hương ổi chín, gió thu se lạnh, tín hiệu thu về còn được cảm nhận qua làn sương sớm đang giăng mắc khắp ngõ xóm vườn quê: “Sương chùng chình qua ngõ”. Nghệ thuật nhân hóa và từ láy tượng hình “chùng chình” gợi ấn tượng thị giác về làn sương thu mềm mại giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm trong không gian như cố ý đi chậm lại chờ đợi bước đi của thời gian. Cứ như thế, thật dịu êm, mơ màng và bất chợt, mùa thu đến từ lúc nào không hay để rồi nhà thơ giật mình bối rối : “Hình như thu đã về”. Hình như là thành phần tình thái ở đầu câu thơ gợi cảm giác mơ hồ, mong manh, chưa rõ ràng, diễn tả cảm xúc bâng khuâng, ngỡ ngàng, xao xuyến trong tâm hồn thi nhân trước thoáng đi bất chợt của thời gian. Như vậy, bằng việc huy động nhiều giác quan từ khứu giác, xúc giác tới thị giác và bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, nhà thơ đã ghi lại những tín hiệu đầu tiên của phút giao mùa thật nhẹ nhàng, êm ái, gợi bao xuyến xao trong lòng người đọc.
14/ Khổ 2 bài Sang thu
Những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về thiên nhiên, đất trời trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu trong một không gian cao và rộng đã được thể hiện thật hay qua những câu thơ:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nếu như khổ thơ thứ nhất, thu mới chỉ là sự đoán định, còn nhiều mơ hồ, băn khoăn thì đến đây, dấu hiệu mùa thu đã dần rõ nét. Cũng như sương thu, dòng sông dường như cũng thong thả, chậm chạp hơn. Nghệ thuật nhân hóa trong từ láy “dềnh dàng” gợi dòng sông trôi thanh thản, êm đềm, khác hẳn dòng sông của mùa hạ, mùa mưa lũ , luôn cuồn cuộn, chảy xiết, bức tranh thu mang vẻ êm dịu. Trên khung trời rộng mở, những cánh chim vội vã hơn vào những chiều hoàng hôn buông sớm. Sự vận động trái chiều của cảnh vật làm cho bức tranh thu trở nên sống động hơn và cho thấy cái nhìn vô cùng tinh tế của tác giả. Điểm nhìn của nhà thơ như được nâng dần từ dòng sông, cánh chim đến bầu trời cao rộng với hình ảnh của “đám mây mùa hạ” đã “vắt nửa mình sang thu” . Lại một sự biến chuyển khác trong khoảnh khắc giao mùa khiến lòng ta rung động. Dường như hạ chưa qua hẳn và thu cũng chưa thực sự đến nên đám mây vẫn còn vương chút nắng vàng tươi sáng của mùa hạ. Đám mây mỏng, nhẹ, kéo dài như tấm khăn voan của người thiếu nữ duyên dáng, thảnh thơi, nhẹ nhàng vắt ngang qua bầu trời. Nghệ thuật nhân hóa khiến đám mây mùa hạ ấy như có hồn, như lưu luyến, vấn vương không nỡ rời xa, gianh giới hạ – thu vốn vô hình, bỗng trở nên hữu hình, cụ thể. Nhà thơ đã rất tài hoa khi miêu tả hình ảnh mang tính tạo hình trong không gian để nói bước chuyển của thời gian phút giao mùa cuối hạ đầu thu. Trong thời khắc giao mùa đó, không gian, đất trời bỗng trở nên khác lạ. Bức tranh mùa thu thật trong sáng, đẹp đẽ đã thể hiện cảm xúc say sưa, tâm hồn tinh tế và khả năng liên tưởng đầy mới lạ, độc đáo của nhà thơ Hữu Thỉnh.
14/ Khổ 3 bài Sang thu
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Nắng – hình ảnh cụ thể của mùa hạ, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gay gắt. Mưa cũng đã ít, tác giả dùng từ “vơi” có giá trị gợi tả như sự đong đếm những sự vật có khối lượng cụ thể để diễn tả cái số lượng vô định – diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ. Tất cả đều chầm chậm, từ từ, không vội vã, không hối hả. Những từ ngữ chỉ mức độ,ước lượng: “vẫn còn”, “ bao nhiêu”, “vơi”, “bớt” được sắp xếp theo trình tự giảm dần, cho thấy dấu hiệu của mùa hạ đang nhạt dần và những dấu hiệu của mùa thu ngày một đậm nét hơn.Tác giả đã làm hiện hình bước chân của mùa thu giữa đất trời. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị: “Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi”. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ chiêm nghiệm về đời người. Mùa thu của thiên nhiên hay “mùa thu” của mỗi con người? Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng hơn. Hai hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi” vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa ẩn dụ. Những tiếng sấm của mùa thu đã bớt dần sự vang động không còn đủ sức làm “bất ngờ” những hàng cây đã bao mùa thay lá ; con người từng trải, từng qua những biến cố thăng trầm của cuộc đời thì sẽ luôn vững vàng trước những biến động bất thường của ngoại cảnh. Có thể thấy, đất trời sang thu khiến lòng người cũng bâng khuâng xúc cảm, gợi bao suy nghĩ về đời người lúc sang thu.
15/ Cảm nhận khổ 3,4,5 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
(1)Cảnh đoàn thuyền cá trên biển trong một đêm trăng đẹp đã được nhà thơ Huy Cận khắc họa thật tài tình qua những khổ thơ 3,4,5 bài “Đoàn thuyền đánh cá”. (2) Trước hết, bằng ngòi bút giàu chất lãng mạn, tác giả đã vẽ lên tư thế, tầm vóc của người lao động giữa biển cả bao la. (3) Con thuyền vốn nhỏ bé giữa vũ tru bao la đã trở nên lớn lao, kì vĩ, sánh ngang với chiều kích của vũ trụ: đó là con thuyền có gió cầm lái, có trăng làm buồm và lướt đi băng băng giữa trời cao biển rộng. (4) Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ và nói quá trong ý thơ “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng” vừa cho thấy tầm vóc lớn lao, kì vĩ lại vừa nói lên tinh thần lạc quan, phơi phới, tràn đầy sinh lực của những người dân chài. (5) Không còn hình ảnh con người nhỏ bé, lẻ loi giữa mênh mông trời nước, giờ đây, những con người ấy đang làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên, họ ra tận khơi xa để đánh bắt cá, “dò bụng biển” và công việc ấy được miêu tả như một thế trận quân sự mà mỗi người lao động thì như đang là một chiến sĩ thực thụ trên mặt trận lao động làm đẹp, làm giàu cho quê hương. (6)Bên cạnh đó, ta lại còn thấy biển cả hiện lên thật đẹp với sự góp mặt của nhiều loài cá quý chốn biển khơi. (7) Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả đã kể tên một loạt các loài cá: chim, thu, nhụ, đé, song – những loài cá quý mang lại nguồn lợi kinh tế cao, lời thơ đã thể niềm vui sướng, tự hào của con người trong tư thế làm chủ. (8) Và với cái nhìn phong phú, giàu trí tưởng tượng, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa vẻ đẹp của biển đêm qua những tính từ chỉ màu sắc: đen hồng, vàng chóe – làm hiện lên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo. (9) Trong cái nhìn độc đáo của nhà thơ, đêm giống như một sinh vật đại dương – nó biết thở “Đêm thở”và tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng nước. (10) Không chỉ vậy, bằng tình yêu với thiên nhiên và cuộc sống lao động, nhà thơ Huy Cận tiếp tục ca ngợi khí thế lao động hăng say và lòng biết ơn biển cả của những dân chài qua những câu thơ tiếp. (11) Một lần nữa tiếng hát tràn đầy khí thé của người lao động lại vang lên giữa mênh mông trời nước, đó là tiếng hát gọi cá vào lưới đầy say mê và hứng khởi, thiên nhiên đã hòa cùng với con người trong công việc lao động “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, khiến công việc lao động vốn nặng nhọc trở thành bài ca nhịp nhàng với thiên nhiên. (12) Trong tâm thức của người dân chài, biển như lòng mẹ không bao giờ vơi cạn, luôn tràn đầy yêu thương ; biển cho con người cá tôm, cho con người nguồn lợi hải sản, nuôi lớn con người bao thế hệ, lời thơ đã thể hiện niềm tự hào và lòng biết ơn của con người lao động với biển mẹ quê hương.
17/ Vẻ đẹp của những người lao động thầm lặng qua lời kể của anh thanh niên
Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, nhưng cũng góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm. Trước hết, phải kể tới là ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa. Ngày qua ngày, ông ngồi lặng lẽ rình xem cách ong lấy mật, ong thụ phấn, nghiên cứu để cốt tìm ra hạt giống để củ su hào to hơn, ngọt hơn, phục vụ cho nhân dân, cho sự nghiệp chiến đấu chung của dân tộc. Việc làm lặng lẽ, âm thầm của ông là cả một sự cống hiến to lớn, quên đi hạnh phúc, nhu cầu của cá nhân mình để thực hiện mục tiêu vì nhân dân, vì cộng đồng. Cùng với đó là anh kĩ sư, anh cán bộ nghiên cứu sét. Suốt mười một năm ròng, anh không một ngày rời xa cơ quan, không về quê thăm gia đình, không nghĩ đến chuyện vợ con, luôn trong tư thế chờ sét. Tóc trên đầu anh cứ hói dần đi nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi, có được cái bản đồ sét ấy thì bao nhiêu của chìm nông, của chìm sâu dưới lòng đất ta đều có thể khai thác được. Rõ ràng, sự nhiệt huyết hết mình của anh cán bộ nghiên cứu sét chính là xuất phát từ mong muốn làm giàu, làm đẹp cho đất nước. Hành động, sự cống hiến của anh thật đáng khâm phục. Và còn một người nữa, tuy không được nói đến nhiều nhưng cũng khiến người đọc chúng ta yêu mến và cảm phục, đó là anh đồng nghiệp trên đỉnh Phan – xi – păng cao 3142 m. Cũng giống như anh thanh niên, anh ấy phải sống một mình trên đỉnh núi cao quanh năm , suốt tháng không một bóng người. Và chắc hẳn, phải yêu nghề, say mê với nghề và có tinh thần trách nhiệm với đất nước thì anh mới có thể vượt qua hoàn cảnh sống và công việc nhiều khắt khe như vậy. Đối với anh thanh niên, họ là những con người tuyệt đẹp. Những con người cống hiến âm thầm, lặng lẽ cho vùng đất Sa Pa làm cho Sa Pa không hề lặng lẽ như tên gọi của nó mà luôn sôi động với một nhịp sống khẩn trương của những con người hết mình hăng say lao động, cống hiến cho quê hương, đất nước.
18/ Cảm nhận của em về nhân vật ông Hai trong đoạn trích sau bằng một đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu, trong đoạn có sử dụng phép thế và thành phần biệt lập.
Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
– Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
– Là con thầy mấy lại con u.
– Thế nhà con ở đâu?
– Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
– Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
– Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
– À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé dơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
– Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
– Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.
Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa.
Anh em đồng chí biết cho bố con ông.
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai: Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đôi phần.
(Trích Làng – Kim Lân, Ngữ văn lớp 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.169 – 170)
Tình yêu làng quê, tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân đã được thể hiện rất chân thành, cảm động qua đoạn văn kể lại cuộc trò chuyện của ông Hai với đứa con trai út. Nhà văn đã để cho ông Hai trò chuyện với đứa con trai út còn nhỏ tuổi, chưa hiểu chuyện gì , chưa biết gì về kháng chiến, về cách mạng mà không phải ai khác bởi đó chính là cách để ông Hai kí thác những tâm sự của mình, trải lòng mình, minh oan cho mình và để có thêm niềm tin vào những gì ông đã chọn lựa. Trước hết, cuộc trò chuyện ngắn ngủi đã cho thấy được tình yêu làng quê thiết tha, sâu đậm của ông Hai. Mặc dù đã chọn lựa phải “thù làng” nhưng khi trò chuyện với con, ông vẫn hỏi con: “Nhà con ở đâu? Con có muốn về làng Dầu không?” Câu hỏi có vẻ ngô nghê mà ông đã biết trước câu trả lời của con nhưng ông vẫn muốn nghe, hỏi con như vậy là ông muốn con nhớ về cội nguồn, gốc gác của mình. Điều đó có nghĩa là dù đã thù làng trong sâu thẳm tâm hồn ông vẫn dành cho làng một tình yêu tha thiết, mãnh liệt.Nhưng hơn cả, qua đoạn trích, ta còn thấy được tình yêu đất nước và niềm tin dành cho kháng chiến của ông Hai . Ông hỏi con : “Thế con ủng hộ ai?” và câu trả lời của thằng bé “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm” dường như đã hoàn toàn trùng khít với suy nghĩ và tình cảm của ông. Nghe con nói vậy, nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông khóc vì hạnh phúc, khóc vì con còn rất nhỏ nhưng đã có tinh thần kháng chiến, đã có niềm tin bất diệt vào cách mạng, vào cụ Hồ. Ông lặp lại câu hỏi của con “Ừ, đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?” nhưng thực chất là để nói rõ lòng mình, ông tin kháng chiến, tin cách mạng, sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân của mình vì tình cảm cao đẹp đó. Lời thề trung thành của ông với cụ Hồ, với anh em đồng chí ở cuối đoạn trích càng cho ta thấy rõ tình yêu đất nước, tinh thần kháng chiến vô cùng sâu sắc, chân thành và mãnh liệt ở ông Hai, tình cảm ấy chi phối và bao trùm lên tất cả.
Chủ đề:35 đề văn nghị luận xã hội, Các bài văn nghị luận xã hội lớp 9 on thi lớp 10, Chuyên đề nghị luận xã hội lớp 10, Luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn Chuyên đề Nghị luận xã hội PDF, Nghị luận xã hội lớp 10 học kì 2, Những bài văn mẫu thi vào lớp 10, Tuyển tập các bài nghị luận văn học thi vào 10, Viết đoạn văn nghị luận lớp 10