[Luyện thi vào 10] Kiến thức cơ bản bài “Ánh trăng”
I/ TÌM HIỂU CHUNG
1/ Tác giả
– Tác giả Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa.
– Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
+ Trước đổi mới: Nguyễn Duy tập trung viết về đề tài chiến tranh và quê hương với khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị, những mất mát, hi sinh và cuộc sống lam lũ của người nông dân.
+ Sau đổi mới: thơ Nguyễn Duy mạnh mẽ, táo bạo, dám phơi bày những bất cập của xã hội đương thời.
– Phong cách sáng tác: Có sự thống nhất của nhiều yếu tố đối lập: mộc mạc, dân dã mà tinh tế, sâu sắc; ngang tàng, tếu táo mà thiết tha, sâu lắng, nhân tình; tự nhiên, ngẫu hứng mà trau truốt, công phu.
2/ Tác phẩm
a/ Hoàn cảnh sáng tác:
– Bài thơ được viết năm 1978, ba năm sau ngày đất nước giải phóng và thống nhất. Lúc này, tác giả đang sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh.
– Xuất xứ: In trong tập thơ Ánh trăng – tập thơ được giải A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1984.
b/ Thể thơ:
5 chữ (ngũ ngôn). Nhà thơ chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi khổ, toàn bài chỉ có một dấu phẩy và một dấu chấm kết bài tạo cho cảm xúc liền mạch, sâu lắng. Mỗi khổ thơ tựa như một mẩu chuyện nhỏ trong câu chuyện tâm tình của nhà thơ.
c/ PTBĐ:
Tự sư kết hợp với biểu cảm
d/ Mạch cảm xúc:
Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ tới hiện tại, gắn các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy, mạch cảm xúc đi từ quá khứ tới hiện tại và lắng kết trong cái giật mình ở cuối bài thơ
e/ Bố cục:
– Phần 1: 2 khổ đầu: Vầng trăng trong quá khứ
– Phần 2: Hai khổ tiếp: Vầng trăng trong hiện tại
– Phần 3: 2 khổ còn lại: cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình.
g/ Ý nghĩa nhan đề
-“ Ánh trăng” trước hết là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu với tất cả những gì gần gũi, thân thuộc nhất.
– “ Ánh trăng” – ánh sáng của vầng trăng, mang vẻ đẹp thuần khiết, đẹp đẽ, trong trẻo. Ánh sáng ấy soi chiếu vào góc tối sâu thẳm trong tâm hồn để con người tự nhận thức bản thân, giật mình thức tỉnh để hoàn thiện nhân cách, hướng con người tới lẽ sống cao đẹp : “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
II/ PHÂN TÍCH
1/ Vầng trăng trong quá khứ
Trong hai khổ thơ đầu, tác giả gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
a/ Khổ 1
– Điệp từ “hồi” mang đậm dấu ấn thời gian, đưa người đọc trở về với những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời người lính: thuở ấu thơ, lúc trưởng thành.
– Các hình ảnh liệt kê: đồng, sông, bể, rừng đã mở ra khoảng không gian bao la, rộng lớn, tươi mát mà ở đó, con người được thỏa sức vẫy vùng, ngụp lặn với thiên nhiên, với vầng trăng tươi mát.
– Điệp từ “với” được lặp lại ba lần để nhấn mạnh sự gắn bó thân thiết giữa con người với thiên nhiên.
Những câu thơ ngắn với giọng tâm tình, thủ thỉ (hồi nhỏ, hồi chiến tranh) đã gợi lại một tuổi thơ sống gắn bó, gần gũi với thiên nhiên rộng lớn.
– Theo năm tháng, cậu bé năm xưa đã lớn lên, trưởng thành, bước vào cuộc chiến sống còn với kẻ thù để bảo vệ tổ quốc và vầng trăng ấy vẫn luôn kề cận, cùng con người trên khắp mọi hành trình:
+ Câu thơ “Hồi chiến tranh ở rừng” đã gợi lại những năm tháng gian khổ, ác liệt của chiến tranh. Và chính trong những năm tháng ấy, sự gắn bó giữa con người và vầng trăng càng trở nên sâu sắc.
+ Phép nhân hóa “Vầng trăng thành tri kỉ” gợi cảm nhận trăng như một con người, luôn kề vai sát cánh cùng người lính đi qua những năm tháng gian lao. Mỗi bước đường hành quân , mỗi phiên gác giữa rừng, người lính luôn có vầng trăng chiếu rọi, bầu bạn tâm tình. Trăng trở thành người bạn thân thiết, tri âm, tri kỉ, luôn đồng cam cộng khổ, chia sẻ những vui buồn đời lính.
Vầng trăng biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên trong trẻo và dung dị, gắn bó với cuộc đời người lính từ lúc tuổi thơ đến khi trưởng thành.
b/ Khổ 2
Vầng trăng đã trở thành một phần không thể thiếu được trong đời sống tâm hồn của người lính, có thể nói đó là những năm tháng sống hồn nhiên, chân thật nhất của người lính.
Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “Trần trụi với thiên nhiên” và hình ảnh so sánh độc đáo “hồn nhiên như cây cỏ” cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Và đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng.
Vầng trăng đã gắn bó cùng con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao. Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu, của thiên nhiên tươi mát, vĩnh hằng. Trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hòa tình nghĩa. Bởi sự gắn bó tình nghĩa ấy, nhân vật trữ tình đã tâm nguyện “ không bao giờ quên” vầng trăng, quên người bạn nghĩa tình gắn bó.
– Tuy nhiên, từ “ngỡ” đứng đầu câu thơ như báo trước một tình huống, một sự biến chuyển bất ngờ trong câu chuyện giữa con người và vầng trăng.
Trong quá khứ, dẫu hoàn cảnh đầy khó khăn, khắc nghiệt, trăng vẫn đồng hành trên mọi bước đường và trở thành người bạn tri kỉ để chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn với người lính . Vầng trăng đã trở thành biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung.
2/ Vầng trăng trong hiện tại
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
a/ Khổ 3
Từ “hồi” một lần nữa xuất hiện, kéo người đọc trở về với hiện tạo, với sự đổi thay trong hoàn cảnh sống và tâm lí, tình cảm của người lính năm xưa:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
– Tác giả đã tạo ra sự đối lập trong hoàn cảnh sống của con người giữa hiện tại và quá khứ: Từ những nhà tranh, vách nứa chốn rừng sâu, nước độc, nay trở về trong những tòa nhà khang trang, hiện đại của thành phố.
– “ánh điện cửa gương” là cách nói hoán dụ để tô đậm cuộc sống đầy đủ tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên.
– Phép nhân hóa, so sánh: “vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người: Vầng trăng – người bạn nghĩa tình tri kỉ năm xưa đã trở thành “người dưng” không quen biết. Hai tiếng “người dưng” nghe nhẹ bẫng mà chua xót tận cùng. Vầng trăng thì vẫn còn đấy, thủy chung tình nghĩa nhưng con người thì hững hờ, thờ ơ , vô tình quên lãng.
Lời thơ mang một ý nghĩa khái quát: Khi hoàn cảnh sống thay đổi thì con người ta có thể phản bội lại chính mình, dễ dàng lãng quên đi những gian khổ, nhọc nhằn của một thời đã qua. Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực của xã hội thời hiện đại.
b/ Khổ 4
– Sự lãng quên, vô tình có thể sẽ là mãi mãi nếu như không có một tình huống bất ngờ xảy ra:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
+ Bốn câu thơ với hai từ “thình lình”, “đột ngột” được đảo trật tự đã tạo nên nhịp thơ nhanh, diễn tả thật chính xác, ấn tượng về một sự việc đột ngột, bất thường : đèn điện tắt, phòng tối om, ngoài kia vầng trăng tròn tỏa sáng. Bốn dòng thơ tạo ra hai không gian đối nghịch nhau: không gian trong phòng chật hẹp, tối om; không gian bên ngoài cửa sổ rộng mở, bát ngát.
+ Ba động từ mạnh “vội, bật, tung” đã diễn tả hành động khẩn trương, vội vàng của con người mong tìm kiếm nguồn ánh sáng của thiên nhiên để xua đi khoảng tối tăm trong căn phòng tiện nghi, hiện đại.
+ Từ “đột ngột” diễn tả cảm giác thảng thốt, bất ngờ của nhân vật trữ tình khi nhận ra vầng trăng tròn vẫn tỏa sáng, vẫn đồng hành cùng con người bấy lâu nay mà con người chẳng nhận ra. Hình ảnh “vầng trăng tròn” xuất hiện chiếu rọi vào căn phòng tối om đã tạo nên một sự đối lập: giữa ánh sáng và bóng tối. Chính khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc và sự “bừng tỉnh” trong nhận thức của nhân vật trữ tình: vầng trăng kia vẫn tròn, “đồng, bể, rừng” kia đâu có mắt, tất cả vẫn đồng hành cùng con người, chỉ có điều con người có còn nhận thấy hay không.
Gặp lại người bạn – vầng trăng xưa giữa cuộc sống hối hả hôm nay, tâm hồn con người được đánh thức, trỗi dậy bao cảm xúc. Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt trong mạch cảm xúc, góp phần bộc lộ tư tưởng và mở ra những suy ngẫm của nhà thơ.
3/ Cảm xúc và suy ngẫm về vầng trăng
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
a/ Khổ 5
Từ tình huống bất ngờ, bài thơ đã mở ra những dòng cảm xúc mãnh liệt của nhân vật trữ tình:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng”
– Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt”, người đọc cảm nhận sự im lặng thành kính, một tư thế trang nghiêm với sự hối lỗi chân thành. Từ “mặt” ở cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa nghĩa cho ý thơ: khuôn mặt đó là khuôn mặt của tri kỉ mà nhân vật trữ tình đã lãng quên , mặt đối mặt – đó còn là con người đối diện với thiên nhiên, hiện tại đối diện với quá khứ, bạc bẽo, vô ơn đối diện với thủy chung, tình nghĩa.
– Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc, phút chốc ấy đã khiến cho cảm xúc dâng trào. Cụm từ “rưng rưng” đã diễn tả nỗi xúc động đến nghẹn ngào, thổn thức trong cảm xúc của nhân vật trữ tình. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày chìm đắm trong cõi u mê, mộng mị; của nỗi ân hận, ăn năn về thái độ sống của chính mình. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng” , thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.
– Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng – biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng , nhìn thẳng vào tâm hồn của chính mình thì bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư . Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về thời chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện rõ theo dòng cảm nhận trào dâng:
“như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập với biện pháp tu từ so sánh (như), điệp ngữ (như là, là) và liệt kê (đồng, bể, sông, rừng) như muốn khắc họa rõ hơn thời gian gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao, nghĩa tình sâu nặng. Chính ánh sáng dung dị, đôn hậu của vầng trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính.
b/ Khổ 6
Khổ thơ cuối là những suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà thơ:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
– Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh”:
+ Phụ từ “cứ” mang tính khẳng định, dù cho thời gian có chảy trôi, lòng người có thay đổi thì vầng trăng vẫn vậy, vẫn tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên bao la.
+ Từ láy “vành vạnh” diễn tả sự tròn đầy, viên mãn của vầng trăng. Trải qua bao sự đổi thay, vầng trăng vẫn vẹn nguyên, không mảy may sứt mẻ dù lòng người quên lãng.
à Trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình, bao dung và tình nghĩa. Không hề trách cứ kẻ đã vô tình lãng quên “kể chi người vô tình”, trăng vẫn tròn đầy, vẹn nguyên, chung thủy.
– Nghệ thuật nhân hóa “ánh trăng im phăng phắc” gợi đến một cái nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao dung độ lượng. Sự im lặng ấy khiến cho nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh.
– Từ “giật mình” chính là một sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong ý thơ:
+ Giật mình là cảm giác tâm lí của một người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của mình.
+ Đó là cái “giật mình” thức tỉnh để nhớ về quá khứ, để ăn năn , sám hối, tự vấn lương tâm của chính mình.
+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân và mọi người phải trân trọng những gì đã qua, uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
Bài thơ “Ánh trăng”, mà đặc biệt là ở khổ thơ cuối đã dồn nén biết bao tâm sự, suy ngẫm, triết lí sâu sắc. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người lời nhắc nhở về đạo lí sống, về đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung.
III/ TỔNG KẾT
1/ Nghệ thuật:
– Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, kết hợp với yếu tố trữ tình, tự sự khiến bài thơ như một lời tự bạch chân thành, sâu sắc.
– Hình ảnh giàu tính biểu cảm và biểu tượng.
2/ Nội dung:
Với giọng điệu tâm tình, bài thơ như là một lời tâm sự của tác giả về những năm tháng gian khổ đã đi qua với những tình cảm bình dị và hiền hậu. Đồng thời bài thơ còn gửi gắm đến chúng ta về một thái độ sống tích cực: ‘uống nước nhớ nguồn”.
🔻 Xem thêm: