[Tài liệu văn 11] Phân tích truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
HAI ĐỨA TRẺ
Thạch Lam
I/ Tìm hiểu chung
1/ Tác giả
Thạch Lam (1910 – 1942), là một trong những cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn – nhóm viết văn tiêu biểu của dòng văn xuôi lãng mạn những năm 1930 – 1945.
Ông là một người đôn hậu, điềm đạm và tinh tế, điều này thể hiện rất rõ trong chất văn của Thạch Lam: trong sáng, giản dị, thâm trầm, sâu sắc.
Thạch Lam là một nhà văn có biệt tài về truyện ngắn, thường khai thác cuộc sống đời thường, bình dị , thường viết những “truyện không có chuyện” mà đi sâu khai thác vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật.
2/ Tác phẩm
Xuất xứ: Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” nằm trong tập truyện “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Đây là tác phẩm mang phong cách truyện ngắn tiêu biểu của Thạch Lam.
Bố cục:
+ Phần 1: Từ đầu à Tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng: Cảnh phố huyện lúc chiều tàn.
+ Phần 2: Tiếp à cuộc sống thường ngày của họ: Cảnh phố huyện lúc đêm xuống.
+ Phần 3: Còn lại : Cảnh đoàn tàu đến và đi qua.
II/ Phân tích
1/ Cảnh phố huyện lúc chiều tàn
a/ Bức tranh thiên nhiên
Hiện lên qua những nét vẽ về âm thanh, hình ảnh, màu sắc
Âm thanh
Âm thanh của tiếng trống thu không từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Trong cảm nhận của Liên, những âm thanh ấy nó vang ra từng tiếng một – cảm giác cho thấy không gian xung quanh Liên rất yên ả, tĩnh lặng và trong một sắc thái nào đó, nó còn gợi tới sự ngưng đọng buồn tẻ của thời gian. Tiếng trống ấy không đơn thuần chỉ là tín hiệu vô tri, hững hờ của thời gian mà nó còn là âm thanh để gọi buổi chiều. Động từ “gọi” khiến cho tiếng trống phút hoàng hôn như có linh hồn, mang tâm trạng của một người buồn bã.
Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. “Kêu ran” – một âm thanh rất rộn rã nhưng lại gợi sự ảo não, sự ảm đạm , làm toát lên sự buồn tẻ, hiu quạnh của xóm làng.
Tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve trong cửa hàng hơi tối. Âm thanh tiếng muỗi làm rõ hơn sự tĩnh lặng của chiều tàn.
Tiếng hoa bàng rụng khe khẽ từng loạt: vừa êm đềm, thi vị, vừa man mác buồn.
Hình ảnh và màu sắc
Hình ảnh hoàng hôn với phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn – đó đều là những gam màu chói gắt và ấm nóng nhưng vẫn không xua được cảm giác về sự lụi tàn bao trùm lên không gian của buổi chiều quê.
Nét vẽ bóng tối bắt đầu hiện lên qua hình ảnh của dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời , bóng tối xuất hiện ở cả những hòn đá nhỏ một bên sáng và một bên tối, để từ đó màn đêm dần buông xuống và ngày một đậm đặc hơn.
Với nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu tính nhạc và giàu hình ảnh, bức tranh thiên nhiên lúc chiều tàn đã được hiện lên với những nét vẽ êm dịu , yên ả, thanh bình. Nhà văn đã dùng những nét vẽ chân thực, giản dị, không cầu kì, không kiểu cách để lột tả cái thần, cái hồn của bức tranh thôn quê Việt Nam. Bức tranh thiên nhiên chiều tà hiện lên rất đẹp, yên ả, mơ mộng, thanh bình nhưng cũng u buồn, lặng lẽ và ảm đạm. Qua đó, ta cũng thấy được tình cảm và sự gắn bó của nhà văn với một vùng quê nghèo.
b/ Bức tranh đời sống
Cảnh chợ tàn
Âm thanh: chỉ có một âm thanh duy nhất đó là “tiếng ồn ào cũng mất” khi mà chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Tiếng ồn ào là âm thanh náo nhiệt khi chợ đông vui, tấp nập thì bây giờ đã tắt dần, mất hẳn, trả lại sự yên tĩnh vốn có cho phố huyện. Đây chính là bút pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh . Âm thanh có nhưng càng buồn hơn, càng khiến không gian tĩnh vắng hơn.
Hình ảnh:
+ Chỉ còn một vài người bán hàng về muộn ở lại dọn nốt hàng và trò chuyện với nhau vài câu.
+ Nền chợ chỉ còn lại vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bã mía,… toàn là những thứ bỏ lại của các thức quà quê bình dị, dân dã và có phần nghèo khó.
+ Những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì còn sót lại.
Cảnh chợ tàn không chỉ tàn tạ, u buồn mà còn xơ xác, tiêu điều, nghèo nàn gợi nỗi ám ảnh, xót xa, tội nghiệp trong lòng người đọc.
Mùi vị: một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc khiến cho Liên tưởng rằng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này. Mùi vị ấy cũng chính là minh chứng cho sự nghèo nàn, tàn tạ, xao xác.
Những kiếp người tàn.
Những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ : cúi lom khom trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ thứ gì còn sót lại. Chúng phải duy trì sự sống bằng những phế thải của sự sống , điều này đã cho thấy sự tàn tạ, buồn thảm đến ghê gớm của cuộc sống nơi đây. Chúng là những đứa trẻ vô cùng đáng thương, tội nghiệp.
Mẹ con chị Tý: cũng là hình ảnh tiêu biểu cho những kiếp người tàn. Ban ngày, chị đi mò cua bắt tép, tối đến, chị dọn hàng nước nhỏ trên cái chõng tre, dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Khách của chị chỉ loanh quanh vài anh phu xe, phu gạo, mua nhiều lắm cũng chỉ bát nước chè tươi, điếu thuốc lào à kiếm ăn chẳng được bao nhiêu nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng.
Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu: Ấn tượng nhất về những kiếp người tàn là bà cụ Thi điên với tiếng cười “khanh khách”, “lảo đảo” khuất dần vào bóng tối. Cảnh hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ không chỉ thể hiện cảm giác sợ hãi mà còn bộc lộ nỗi xót thương, ái ngại cho một kiếp sống vô cảm, vô thức. Cuộc đời cụ cũng là một bóng tối triền miên góp phần làm dày đặc thêm bóng tối của phố huyện.
Hai chị em Liên và An: Bản thân chị em Liên cũng đang sống trong một kiếp đời tàn. Cuộc sống với những gì được coi là tốt đẹp nhất đã lùi vào dĩ vãng, vào mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm. Bây giờ, thầy Liên mất việc, mẹ Liên quần quật suốt ngày với gánh hàng xáo, hai chị em giúp mẹ trông coi cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu và ế ẩm. Đó là một gian hàng thuê lại với những món hàng đơn giản, bán cho vài khách quen thuộc. Hai chị em cũng phải tham gia vào công cuộc mưu sinh.
Mẹ Liên và An: Dù không được nhắc tới nhiều nhưng qua lời kể của Liên, người đọc cũng cảm thương cho cuộc sống của mẹ Liên – một người phụ nữ chịu thương chịu khó. Mẹ Liên là trụ cột gia đình, làm nghề hàng xáo , thu nhập chẳng là bao, chỉ lấy công làm lãi.
Bức tranh đời sống hiện lên với sự nghèo nàn, khó khăn, đơn điệu, tẻ nhạt và tiêu điều đến thảm hại với những con người ẩn nhẫn và cam chịu.
c/ Bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên
Tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong thời khắc ngày tàn:
+ Được thể hiện trong cảm nhận của Liên về mùi riêng của quê hương, của phiên chợ ngày tàn: một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng ban ngày trộn lẫn với mùi cát bui quen thuộc quá khiến Liên tưởng rằng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này. Với Liên, đó là một mùi thân thuộc, gắn bó, yêu thương.
+ Cái buồn của cảnh vật thấm vào tâm hồn của con người: Liên ngồi lặng yên bên mấy quả thuốc sơn đen, trong đôi mắt chị, bóng tối ngập đầy dần….
Nhân hậu và giàu lòng thương yêu:
+ Với mẹ con chị Tí : Liên ân cần hỏi han, lời kể của Liên về hoàn cảnh gia đình chị Tí đã chứa đựng trong đó sự yêu thương, xót xa , ái ngại cho gia cảnh của chị.
+ Với bà cụ Thi: nghe tiếng cười là biết bà cụ Thi đã đến, Liên lẳng lặng rót đầy một li rượu ti đưa cho cụ với tấm lòng thơm thảo và khi cụ đã đi khuất rồi, Liên vẫn lặng lẽ nhìn theo với nỗi xót xa, ái ngại.
+ Những đứa trẻ con nhà nghèo: Liên động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng.
Bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên đã nói lên tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn Thạch Lam: xót xa, thương cảm cho những con người nơi phố huyện. Qua đó cũng cho ta thấy được tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nươc của nhà văn.
2/ Bức tranh phố huyện lúc đêm xuống
a/ Khung cảnh phố huyện
Khung cảnh phố huyện khi đêm xuống được tái hiện bằng hai mảng màu đối lập, tương phản : bóng tối và ánh sáng.
Không gian ngập chìm trong bóng tối mênh mênh : “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối; tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà; các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn… ” à bóng tối bao phủ và đen đặc gợi nỗi buồn đến thê lương của những kiếp người sống chìm khuất trong bóng tối với sự nghèo nàn, quẩn quanh và bế tắc.
Ánh sáng được miêu tả ở nhiều nguồn khác nhau nhưng đều nhỏ bé, yếu ớt với những khe sáng, quầng sáng, hột sáng, với bếp lửa của bác Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất cát, với hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, với vệt sáng của những con đom đóm, vệt sáng và vùng sáng nhỏ xanh lấp lánh. Ánh sáng được miêu tả ở nhiều sắc độ và hình thù khác nhau nhưng tựu chung lại đều là thứ ánh sáng le lói, yếu ớt, mong manh.
Ánh sáng và bóng tối đã mang ý nghĩa biểu tượng:
+ Bóng tối: tượng trưng cho màn đêm mênh mông của xã hội cũ.
+ Ánh sáng: tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh ở phố huyện: chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi điên,…
b/ Hình ảnh con người
Những cảnh sống nghèo nàn, cơ cực:
Với giọng văn đều đều, chậm buồn và tha thiết, Thạch Lam đã giúp người đọc cảm nhận rất rõ về cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp lại của những con người nơi phố huyện nghèo:
Bác Xẩm: với tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thức hàng của bác quá xa xỉ so với người dân nơi phố huyện cho nên thu nhập chẳng đáng là bao, gia cảnh của bác rất nghèo nàn.
Gánh hàng của bác phở Siêu với thức quà xa xỉ nên lúc nào cũng vắng khách.
Mẹ con chị Tí ngày nào cũng dọn hàng dù thu nhập chẳng đáng là bao bởi khách hàng của chị quanh đi quẩn lại cũng chỉ có mấy người: mấy bác phu gạo, phu xe, người nhà của các thầy đi gọi chân đánh tổ tôm,…
Chị em Liên: nhìn thấy những đứa trẻ tụ tập chơi đùa, cũng muốn tham gia chơi cùng bọn chúng nhưng lại sợ trái lời mẹ dặn nên không dám đứng dậy, chỉ thèm thuồng nhìn từ xa và chuyển ánh mắt nhìn ra bóng tối, thấy những người đi làm về muộn từ từ đi trong đêm. Liên, An hiện ra với dáng vẻ thật ảo não, đáng thương.
Ước mơ đổi đời
Dẫu cơ cực nhưng họ vẫn không mất đi niềm tin và hi vọng vào cuộc sống: “ Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ” . ước mơ ấy dù có mơ hồ, chập chờn, vu vơ nhưng lại chứng tỏ: trong hoàn cảnh nào, con người vẫn không thôi mơ ước về những điều tốt đẹp bởi lẽ cuộc sống là phải biết ước mơ và hi vọng. Những ước mơ ấy thật đáng trân trọng.
c/ Bức tranh tâm hồn của Liên
Vẻ đẹp tâm hồn của Liên được thể hiện trước hết qua những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh.
Liên thích thú ngắm nhìn bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh , tưởng tượng ra dòng sông ngân hà, hai con vịt theo chân ông Thần Nông, một thế giới cổ tích thần tiên lại ùa về.
Liên cũng cảm nhận thấy những nguồn sáng khác nhau và đưa ánh nhìn quan sát từng nguồn sáng ấy.
Cảm nhận thấy từng loạt hoa bàng khe khẽ rụng trên vai áo.
Phải có một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Liên mới có những cảm nhận trước những biến chuyển hết sức nhẹ nhàng của cảnh vật.
Vẻ đẹp tâm hồn của cô bé Liên cũng được thể hiện trong ước mơ đổi đời:
Liên cố tìm nguồn sáng để xua đi bóng tối : những khe sáng, hột sáng, quầng sáng,… những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng lại rất nhỏ bé, mong manh, yếu ớt, không đủ sức để xua đi bóng đêm.
Liên tìm đến ánh sáng của quá khứ : Hà Nội rực rỡ ánh đèn nhưng đó chỉ là ánh sáng của hoài niệm.
Tìm đến nguồn sáng thứ ba : ánh sáng của đoàn tàu.
Sự tìm kiếm ánh sáng ấy của Liên cho thấy khát vọng đổi đời, khát khao thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của thực tại.
Từ đây, ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam:
+ Thương cảm cho kiếp sống của những con người nơi phố huyện
+ Trân trọng ước mơ của Liên và những con người nơi phố huyện
+ Kín đáo thể hiện ước mơ thay đổi cuộc sống cho những người dân nơi phố huyện trong xã hội đương thời.
3/ Bức tranh phố huyện khi tàu đến và đi qua
a/ Trước khi tàu đến
Hai chị em Liên, mẹ con chị Tý, gia đình bác Xẩm, những người bán hàng,… đều chờ đợi khoảnh khắc cuối cùng của ngày : Cảnh đoàn tàu đi qua.
Hai đứa trẻ mặc dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu. An trước khi đi ngủ còn dặn chị đánh thức mình khi tàu đến.
b/ Khi tàu đến
Khi tàu còn ở phía xa: Liên đã trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, Liên đã cảm thấy xúc động khi nghe thấy tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi à tiếng còi trở thành âm vang mơ hồ, xao xuyến, ngân vang.
Khi tàu tới: con tàu mang đến một thế giới khác hoàn toàn thế giới nơi phố huyện:
+ Âm thanh : tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng hành khách ồn ào, khe khẽ,…
+ Màu sắc : một làn khói bừng sáng trắng, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường; đồng và kền sáng lấp lánh, các cửa kính trắng . Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà nhà văn sử dụng tới bốn lần tính từ chỉ ánh sáng : sáng trưng, lấp lánh, chiếu sáng, cửa kính sáng à ánh sáng đã lên ngôi, trung tâm của bức tranh giờ chỉ còn màu sáng rực rỡ, huy hoàng , bóng đêm đã thực sự bị xua tan trong chốc lát.
Các động từ, tính từ mạnh được sử dụng liên tiếp : rầm rộ, rít mạnh, dồn dập, ồn ào, bừng sáng, sáng trưng ,… đã cho thấy sự choáng ngợp của hai chị em trước hình ảnh đoàn tàu đang tới
+ Sau cùng, đoàn tàu xa khuất vào bóng tối chỉ còn lại những đốm than nhỏ tung bay trên đường sắt à hai đứa trẻ ngẩn ngơ dõi theo cái chấm nhỏ của ngọn đèn ấy trong niềm tiếc nuối, khát khao.
Con tàu khiến cho cả phố huyện bừng sáng, náo nhiệt trong cái im lặng mênh mông của đêm tối. Một phố huyện vui vẻ, sáng rực và huyên náo dù chỉ trong chốc lát rồi lại rơi vào bóng đêm tịch mịch.
c/ Khi tàu đi qua
Bóng tối lại dày đặc và để lại bao tiếc nuối cho những người dân nơi phố huyện nghèo, đặc biệt là hai chị em Liên. Chuyến tàu không đông như mọi khi nhưng vẫn mang đến cho hai đứa trẻ bao niềm xúc động. Sự xúc động thể hiện rõ trong cử chỉ “Liên cầm tay em không đáp”, “lặng người theo mơ tưởng” về Hà Nội xa xăm, vui vẻ, sáng rực và huyên náo. Đoàn tàu đến đưa hai đưa trẻ thoát khỏi không gian tăm tối, nghèo khổ của phố huyện dù chỉ trong chốc lát. Và những kí ức về một tuổi thơ êm đẹp như tiếng gọi về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Nỗi buồn lại ập đến day dứt, thấm thía vì sự ngậm ngùi, thương cảm cho hiện tại nơi phố huyện nghèo mà sự xuất hiện của đoàn tàu chỉ làm nổi rõ sự tương phản đến xót xa, khiến người đọc không khỏi day dứt.
4/ Ý nghĩa hình ảnh chuyến tàu đêm
Chuyến tàu là hoạt động cuối cùng của đêm khuya , hoạt động ấy có khả năng khuấy động mãnh liệt nhịp sống tù đọng, tẻ nhạt của phố huyện nghèo , đem lại cho nó sự đổi thay dù chỉ trong chốc lát.
Chuyến tàu là hình ảnh đối lập với cuộc sống mòn mỏi, tối tăm, quẩn quanh của người dân phố huyện.
Đoàn tàu đem đến cho phố huyện một thế giới khác hẳn: nếu phố huyện tàn tạ và tối tăm thì đoàn tàu sáng trưng và rực rỡ; nếu phố huyện tù đọng, ngưng trệ thì đoàn tàu náo nhiệt và sống động; nếu phố huyện xơ xác và nghèo khổ thì đoàn tàu lại sang trọng và giàu có à Đoàn tàu chính là biểu tượng cho thế giới đáng sống với sự giàu sang và rực rỡ ánh sáng.
Với chị em Liên, đoàn tàu vừa mang lại kí ức vui tươi, vừa đem đến ước vọng mơ hồ mà đẹp đẽ như trong truyện cổ tích nhưng chẳng khác gì một ảo ảnh, vụt sáng rồi lại qua ngay, xa dần, nhỏ dần, tắt dần tróng sự nuối tiếc. Hai chị em Liên chờ đợi tàu không phải để bán hàng mà để nhìn thấy một thế giới khác sôi động và sang trọng hơn.
Còn với những người dân nghèo khổ kia thì đoàn tàu lại là cảnh sống của một thế giới thần tiên, mơ hồ, xa lạ nhưng lại hiện ra đêm đêm nhưng một giấc mộng đẹp , một ước mơ xa xôi dẫu không bao giờ thành hiện thực nhưng vẫn như có một cái gì đó là niềm an ủi chốc lát cho cảnh đời cơ cực của họ.
Chuyến tàu là niềm an ủi, niềm tin để con người tiếp tục hi vọng , chờ đợi về một thế giới tươi sáng hơn.
Chờ đợi tàu đã trở thành một nhu cầu có thể khỏa lấp những khoảng trống mênh mông trong tâm hồn Liên , giúp Liên nhìn thấy sâu hơn, rõ hơn cuộc sống phủ đầy bóng tối nơi phố huyện.
Con tàu đã tác động vào lòng người một ấn tượng mạnh mẽ, đưa phố huyện ra khỏi cuộc sống tù đọng, u uẩn dù chỉ trong chốc lát , chờ đợi con tàu trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân nơi phố huyện . Đoàn tàu chính là niềm vui, niềm an ủi, hi vọng dẫu còn mơ hồ về một ngày mai tươi sáng, là khát vọng sống mãnh liệt chợt bùng lên trong tâm hồn của những con người nghèo khổ è Thạch Lam đã nhìn thấy và mô tả khát vọng sống ẩn chứa sâu trong tâm hồn người lao động nghèo nơi phố huyện.
Bằng tình cảm và tấm lòng nhân hậu của mình , nhà văn Thạch Lam đã thể hiện một cách nhìn trong trẻo, nhẹ nhàng và sâu lắng về người lao động nghèo, đặc biệt là trẻ thơ.
IV/ TỔNG KẾT – GHI NHỚ SGK
1/ Nội dung
Phản ánh cuộc đời nghèo nàn, quẩn quanh, lay lắt, lụi tàn của những kiếp người phố huyện
Trân trọng, nâng niu khát vọng hướng về ánh sáng, về một sự tồn tại có ý nghĩa của những người dân phố huyện
→ Giá trị nhân đạo
2/ Nghệ thuật
Truyện không có chuyện- điểm nhìn của nhân vật Liên
Bút pháp tương phản
Nghệ thuật khắc họa cảnh tượng, chi tiết
Bút pháp nghệ thuật tương phản
+ Phố huyện thường ngày- phố huyện trong khoảnh khắc đoàn tàu đi qua
+ Ánh sáng- bóng tối trong lòng phố huyện
+ Những người dân phố huyện- đời sống phố huyện buồn tẻ, tăm tối, nghèo nàn + Chị em An và Liên- những người dân phố huyện
+ Quá khứ- hiện tại
Hà Nội | Phố huyện |
Sáng rực và lấp lánh | Tối tăm |
Ồn ảo, náo nhiệt | Yên tĩnh, tịch mịch |
Sôi nổi | Buồn tẻ, quẩn quanh |
Xa hoa | Nghèo khổ |
Xa xăm | Gần kề |
→ Tác dụng: làm nổi bật cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của những kiếp người phố huyện và khát vọng hướng về ánh sáng, về một sự sống có ý nghĩa của họ, sức mạnh tinh thần giúp con người ta vượt lên trên thực tại tối tăm.
🔻 Xem thêm:
- Chất trữ tình trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
- Vẻ đẹp tâm hồn Liên trong “Hai đứa trẻ”
- Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
- Phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam
- Kiến thức cơ bản truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam