[Học văn 11] Nỗi đau duyên phận và khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương trong “Tự tình II”
“Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận, vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”
Phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận định trên.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1/Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Khái quát nội dung, ý nghĩa tác phẩm và trích dẫn nhận định cần chứng minh.
2/Thân bài:
a.Tự tình II cho ta thấy bi kịch duyên phận của người phụ nữ:
- Hai câu đề:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
– Mở đầu bài thơ là điểm thời gian đêm khuya, khi con người đối diện thật nhất với mình cũng là lúc nhân vật trữ nhận ra tình cảnh đáng thương của mình. Sự cô đơn trơ trọi được đặt trong thời gian.
– Tiếng trống canh được cảm nhận trong cái tĩnh lặng, trong sự phấp phỏng như sợ bước chuyển mau lẹ của thời gian. Được xác định cụ thể qua cụm từ văng vẳng.
– Chữ dồn nghĩa là dồn dập vừa diễn tả nhịp thời gian trôi đi mà gấp gáp.
Âm thanh từ xa vọng lại, vừa là điểm nhịp thời gian vừa là sự tĩnh lặng của không gian, như muốn đánh thức nỗi niềm của con người. Khi trăm mối tơ lòng không thể gỡ mà thời gian gấp gáp cứ trôi đi thì còn lại là sự bẽ bàng…
Trơ cái hồng nhan với nước non.
– Chữ trơ được đặt ở đầu câu nhấn mạnh nỗi đau của sự cô đon, của sự bất hạnh trong tình duyên.
– Hai chữ hồng nhan là má hồng, nói về dung nhan thiếu nữ mà lại đi với từ cái thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. Mặc dù là hồng nhan nhưng vẫn gợi ra vế thứ hai là bạc phận.
– Nhịp thơ 1/3/3, nghệ thuật đảo ngữ trơ lên đầu câu, từ cái, nghệ thuật đối lập cái hồng nhan với nước non đã nhấn mạnh sự bẽ bàng, cô đơn của người phụ nữ trước không gian rộng lớn. Hơn nữa, trơ không chỉ là bẽ bàng mà còn là lì ra, thách thức thể hiện sự bền gan thách đố.
Cái hồng nhan trơ với nuớc non không chỉ là dãi dầu mà còn là cay đắng, vì vậy nỗi xót xa càng thấm thìa, càng ngẫm lại càng đau.
Hai câu đề, vừa thể hiện nỗi tủi hổ, sự cô đơn vừa thể hiện sự bền gan, thách đố của nhân vật trữ tình. Qua đó, khiến ta càng cảm thông hơn với thân phận người phụ nữ xưa.
- Hai câu thực:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
– Muốn mượn chén rượu để giải sầu, để quên đi, để khuây khoả nỗi buồn cô đơn, nhưng càng uống, hương rượu đưa lên càng say lại tỉnh.
– Say lại tỉnh gợi sự quẩn quanh, cái vòng luẩn quẩn, dường như tình yêu đã trở thành trò đùa của duyên phận.
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
– Vầng trăng: là biểu tượng cho cái đẹp, sự viên mãn, hạnh phúc tràn đầy.
– Nhưng vầng trăng bóng xế là qua thời điểm chín viên, khuyết chưa tròn là sự thiếu hụt không trọn vẹn.
–>> Vầng trăng biểu tượng cho tuổi xuân con người đã qua mà hạnh phúc mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn.
==>> Hai câu thơ vừa là ngoại cảnh mà vừa là tâm cảnh, tác giả đã tạo nên sự đồng nhất người-trăng, người với thiên nhiên, từ đó làm nổi bật sự éo le của thân phận phụ nữ.
– Liên hệ: Trăng trong thơ Trung đại thường thể hiện và đồng cảm với sự bất hạnh của số phận phụ nữ.Đó là cảnh nàng Kiều khắc khoải cô đơn trong đêm trường lạnh giá khi chia tay với Thúc Sinh – cũng là vĩnh viễn chia li với hạnh phúc chỉ ấm trôn kim mà nàng vừa có được. Đó cũng là cảnh những người cung nữ, chinh phụ trong những đêm dài xa vắng người thương, nhìn trăng hoa giao hòa quấn quýt.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
(Chinh phụ ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm dịch)
b/ Nhưng nỗi buồn trong thơ HXH bao giờ cũng mang đến một phản ứng tích cực. Bên cạnh nỗi đau của HXH còn là bản lĩnh, là khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của bà:
- Hai câu luận:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
– Những sinh vật nhỏ bé, hèn mọn nhu đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu, nó phải mọc xiên, lại xiên ngang mặt đất. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt lên để đâm toạc chân mây.
– Nghệ thuật đảo cấu trúc ngữ pháp, đối nhau rất chỉnh, các động từ mạnh xiên ngang, đâm toạc lên đầu câu, không chỉ nói lên sức sống tiềm ẩn của thiên nhiên mà còn biểu hiện một thái độ bươn ra, một ý thức vươn dậy, muốn thoát ra khỏi sự tù túng của cảnh ngộ, của số phận.
==>> Đó là thái độ không cam chịu, là hành động phản kháng bi kịch cuộc đời, sức sống mãnh liệt của người phụ nữ. Nó thể hiện rõ dấu ấn của Hồ Xuân Hương: ngôn từ dùng thì sắc nhọn, cá tính thì bướng bỉnh, ngang ngạnh.
- Hai câu kết:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con !
– “Ngán” là ngán ngẩm, ngao ngán, chán ngán.
–>> Đó là tâm trạng chán chường, buồn tủi, gần như bất lực, cam chịu trước số phận, duyên phận hẩm hiu, lẻ mọn.
– Điệp từ lại nhấn mạnh mùa xuân trôi qua rồi mùa xuân trở lại, nhưng tuổi xuân người cô phụ ngày một phai tàn theo năm tháng chờ mong. Chờ mong xuân tình, chờ mong hạnh phúc, nhưng nào có được là bao?
– Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ thành ra ít ỏi, chỉ còn tí con con, nên càng xót xa tội nghiệp.
==>Nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, với họ, hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp. Thời gian điều chỉnh mọi tâm hồn, với Hồ Xuân Hương và bao người phụ nữ cùng chung cảnh ngộ cũng không thể nào vùng vẫy thoát ra được. Sự khát khao hạnh phúc và nỗi buồn vì thân phận lẽ mọn được nữ sĩ nói đến một cách chân thật cảm động, đã làm nên giá trị nhân bản của bài thơ “Tự tình” – II.
c/ Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Hồ Xuân Hương rất đặc sắc.
Bên cạnh các chữ làm vần thơ (dồn, non, tròn, hòn, con), các từ láy (văng vẳng, san sẻ, con con), thì chữ “lại” xuất hiện đến ba lần trong một bài thơ Đường luật. Đó là một điều hi hữu:
– Chén rượu hương đưa say lại tỉnh.
– Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.
Đó không phải là một sự non tay! Nữ sĩ đã thể hiện một cách đầy ấn tượng sự đồng hiện thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật qua chữ “lại” ấy.
3. Kết bài :
– Sử dụng từ ngữ độc đáo, sắc nhọn,tả cảnh sinh động đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ.
– Qua bài thơ ta thấy được bản lĩnh Hô Xuân Hương được thể hiện qua tâm trạng đầy bi kịch: vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát được hạnh phúc.