
Thuyết minh về cây lúa nước
Có một nhà thơ đã viết:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn?
Vâng, còn gì có thể đẹp hơn thế nữa? Những cánh đồng lúa thẳm xanh trải dài tít tắp đến tận chân trời luôn là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh đồng quê Việt Nam. Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người, với làng quê Việt Nam và mang cho mình tên gọi của một nền văn minh nông nghiệp – văn minh lúa nước. Không chỉ mang lại sự no đủ, cây lúa còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần, một biếu tượng trong sáng tác văn chương.
Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới. Với người dân Việt Nam và một số nước Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc thì lúa là một thực vật quý giá, là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm ngũ cốc và là cây lương thực chính . Cây lúa sống chủ yếu nhờ nước nên được gọi là lúa nước, không có nước, lúa không thể sống nổi; lượng nước thiếu sẽ không đảm bảo cho sự sinh trưởng của cây lúa và không đạt năng xuất cao. Lúa thuộc loài thân thảo, loại cây một lá mầm và rễ chùm. Thân cây lúa có chiều rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60 – 80 cm ; thân mọc thẳng, rỗng và mềm, nối với nhau bằng nhiều đốt. Lá lúa có phiến dài và mỏng,mọc bao quanh thân, mặt lá nhám, gân lá chạy song song theo sống lá. Tùy thời kì sinh trưởng, phát triền mà lá lúa có màu khác nhau. Khi lúa chín ngả sang màu vàng. Rễ lúa trưởng thành có độ dài khoảng 4-6 cm, thường mọc với nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân cây. Khác với các loại cây thông thường, hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa nhỏ xíu, mọc thành nhiều chùm dài, không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhuỵ ở bên trong. Lúc hoa lúa nở, đầu nhuỵ thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng.
Để có được hạt lúa vàng ươm phải trải qua rất nhiều công đoạn từ làm đất, gieo hạt, cấy lúa đến chăm bón để cây lúa trưởng thành và tạo hạt. Khâu làm đất cực kì quan trọng, chính vì thế mà tục ngữ mới có câu “nhất thì, nhì thục” có nghĩa trong việc trồng lúa thì quan trọng nhất là đúng thời vụ và thứ hai là làm đất phải tốt. Đất để gieo hạt hay cấy lúa phải mềm, lượng nước không nhiều quá cũng không được ít quá. Sau khi gieo hạt giống, đợi hạt nảy mầm ( gọi là mạ ) cao chừng 20cm thì có thể đem cấy ở ruộng . Trong suốt thời gian cây lúa sinh trưởng, cây lúa cần được chăm sóc để đảm bảo đủ lượng nước và ngăn ngừa sâu bệnh. Khi bông lúa nặng trĩu, cánh đồng lúa xanh mướt thay bằng sắc vàng tươi cũng là lúc cây lúa đến ngày thu hoạch. Hạt lúa được quạt sạch bụi, phơi khô và xát thành gạo. Bao nhiêu công sức, bao nỗi vất vả lo toan của nhà nông mới làm nên hạt gạo, ấy vậy mới có câu ca:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Cây lúa có vai trò rất lớn đối với đời sống con người. Hạt gạo là nguồn lương thực chính , cung cấp chất dinh dưỡng thiết yếu, rất cần thiết cho cơ thể. Ngoài việc nuôi sống con người, hạt lúa, hạt gạo còn gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt. Có nhiều loại gạo: gạo tẻ, gạo nếp, … Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh truyền thống của con người Việt Nam trong dịp Tết Nguyên Đán. Bánh chưng, bánh giầy còn gắn liền với truyền thuyết Lang Liêu thời vua Hùng dựng nước và truyền thuyết ấy đến bây giờ vẫn là vật báu trong kho tàng văn học dân gian của Việt Nam ta. Lúa nếp non còn dùng để làm cốm – một thức quà thanh lịch của người Hà Nội. Gạo nếp dùng để đồ các loại xôi – một món đồ lễ không thể thiếu trên bàn thờ của người Việt trong ngày Tết và ngày cúng giỗ tổ tiên hay trong các bữa cỗ cưới hỏi, ma chay. Đồng thời xôi cũng là thức quà quen thuộc hằng ngày, là bữa ăn sáng tiện lợi. Từ lúa gạo, người Việt còn làm rất nhiều loại bánh như: bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh nếp, bánh phở, cháo… Nếu không có gạo, thật là khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực mang bản sắc văn hóa Việt Nam, mang tên tuổi Việt Nam đến với nhiều bạn bè quốc tế.
Không chỉ hạt lúa mới có vai trò to lớn thôi đâu, cây lúa mang cả thân mình ra mà đóng góp vào cuộc sống chung của mọi người. Hạt lúa sau khi xay xát được tách ra thành 2 loại đó là: gạo và trấu. Gạo dùng để ăn, trấu dùng để làm phân bón cho cây cối, làm nguyên liệu đốt hoặc thậm chí làm ổ cho già, vịt nằm trong mùa lạnh. Thân lúa sau tuốt lấy hạt được gọi là rơm, rơm được phơi khô và chất thành đống để dữ trữ làm thức ăn cho gia súc, làm nguyên liệu đốt và dùng để gia súc nằm khi trời lạnh. Khi đất nước còn nghèo khó, chưa có những ngôi nhà mái ngói, mái tôn như bây giờ, thân rơm còn được sắp xếp phẳng phiu đan thành những tấm phên lớn để lợp nóc nhà, nóc bếp, che nắng che mưa cho biết bao thế hệ con người. Sự gắn bó giản dị mà gần gũi, thân thiết của cây lúa với người dân Việt Nam là như thế đấy!
Ngày nay, Việt Nam đã lai tạo hơn 30 loại giống lúa khác nhau và được công nhận là giống lúa quốc gia. Từ một nước nghèo đói, lạc hậu. Việt Nam nay là nước thứ 2 xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Có được điều đó là thành quả của biết bao nỗ lực, bao cố gắng không ngừng nghỉ và một tình yêu đối với cây lúa nước của một nước đi lên từ nông nghiệp như chúng ta.
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI – thế kỉ của những phát kiến hiện đại, Việt Nam đi dần vào xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị tiềm năng của nó vẫn là vị trí số một trong quá trình phát triển đất nước. Cây lúa bao đời vẫn là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần; không chỉ hôm nay mà mãi mãi về sau.