Phân tích bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí”
Bên cạnh kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại cho văn học dân tộc nhiều bài thơ chữ Hán có giá trị. Thơ của Nguyễn Du chủ yếu thuộc loại thơ cảm thương. Thương người nghèo, thương người đói, thương con người trong cuộc bể dâu. Là một con người có tấm lòng nhân đạo cao cả, là người nghệ sĩ có tình yêu tha thiết với cái đẹp, nên tình cảm và tâm huyết của ông tập trung ở những bài thơ về thân phận “tài hoa bạc mệnh”. Đó là nàng Kiều, là người ca nữ đất Long Thành, là nàng Tiểu Thanh… Có thể nói : trân trọng tài năng và đồng cảm với số phận bi kịch của họ là tinh thần nhân đạo xuyên suốt trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Du. Một trong những bài thơ thể hiện điều đó là bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí”:
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,
|
Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với tấn bi kịch số phận của nàng Tiểu Thanh, người con gái tài sắc vẹn toàn mà mệnh yểu. Tiểu Thanh là người con gái có tài có sắc sống vào đầu đời Minh ở Trung Quốc. Nàng họ Phùng, lấy lẽ một người cũng tên là Phùng. Vợ cả ghen hành hạ, nàng buồn khổ đến chết khi mới mười tám tuổi, nay ở Cô Sơn, Chiết Giang vẫn còn mộ. Trước tập thơ còn sót lại và câu chuyện về số phận bi thảm của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã bày tỏ sự đồng cảm của mình. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, bố cục 4 phần : đề-thực- luận-kết.Độc “Tiểu Thanh kí” nằm ở cuối Thanh Hiên thi tập, tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du. |
Hai câu thơ đầu là hai câu tả cảnh để mà kể việc:
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang. Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Bài thơ mở đầu bằng cách đưa ra một thi đề: Vườn hoa bên Hồ Tây giờ đã trở thành một bãi hoang rồi. Câu thơ thoáng chút chua xót nhẹ nhàng: “Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang”. Bằng giác quan nghệ thuật, ta nhận ra một vườn hoa với sắc hương và hình dáng. Cái đẹp chi phối, choáng ngợp tâm hồn ta. Cái đẹp ấy tưởng chừng là sự trường tồn vĩnh cửu. Thế nhưng trải qua thời gian, cái đẹp lụi tàn theo năm tháng. Vườn hoa bình yên, êm ả đã trở thành một bãi hoang phế, trơ trụi tiêu điều. Nó chỉ để lại một chút dấu ấn trong lòng người mà thôi. Nuối tiếc, thương xót và pha chút ngậm ngùi. Nguyễn Du đã mượn sự biến đổi của thiên nhiên mà ngụ ý sự biến đổi khôn lường của cuộc đời, con người. Đó là sự ý thức về cái vô hạn của trời đất với cái hữu hạn của con người. Nó gợi lên sự tài lụi không thể nào tránh khỏi cho một kiếp người, cho hồng nhan. Và Nguyễn Du đau xót: Câu thơ không chỉ có ý nghĩa cho sự mở đầu, giới thiệu sự việc mà chính là cảm xúc của nhân vật trữ tình: “Thổn thức bên song mảnh giấy tàn”. Một khung cửa sổ tương thông lòng người với vũ trụ, tương thông lòng người với tình người. Bên những mảnh thơ tàn của một tài hoa bị vùi dập, Nguyễn Du cảm nhận và thổn thức đau thương. Ông muốn lưu giữ tất cả, níu kéo tất cả nhưng cuối cùng chỉ còn là sự tàn tạ. Cái để gợi cho lòng người thi sĩ thì đâu có nhiều mà tình thì mênh mông, vô hạn. Nguyễn Du đã khóc Tiểu Thanh – khóc nàng qua một tập sách nhỏ. Lòng Nguyễn Du mênh mông mà sâu lắng quá ! Khoảng cách của không gian không thể ngăn cách, cản trở tấm lòng của ông. |
Hai câu thực nêu lên những suy nghĩ về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh thông qua hai hình ảnh ẩn dụ son phấn (vẻ đẹp) và văn chương (tài năng):
“Son phấn có thần chôn vẫn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương” . Câu thơ dịch gói trọn được cả tiếng lòng Nguyễn Du. Cảm xúc trước phần di cảo một tài năng, Nguyễn Du cảm nhận được cả cái tình Tiểu Thanh. Nỗi oan nàng phải gánh chịu nỗi oan thể kỉ, mối sầu vạn kiếp. Dưới suối vàng, Tiểu Thanh chắc còn đau đớn, u uất… Nỗi đau ai oán của nàng còn sâu sắc, mạnh mẽ hơn nhiều khi cả linh hồn nàng cũng bị hủy diệt: Văn chương không mệnh… Nguyễn Du thoáng một chút động lòng mà nghe đã tê tái, tang thương. Người có tài văn chương (nói riêng) thì vô mệnh. Phi lí, độc ác hơn là số phận áng văn thơ. Chúng có tội tình gì đâu mà phải trở thành tro bụi ? Nhưng có phải đó là tấm lòng Tiểu Thanh, là ngụ chút lòng của một người con gái. Thể xác nàng dưới suối vàng như linh hồn còn trú ngụ nơi trần gian. Linh hồn ấy là trái tim, là tâm sự, là nửa cuộc đời còn ẩn mãi trong mỗi trang thơ. Thế nên, thể xác bị diệt vong, thì linh hồn cũng bị lụi tàn. “Son phấn” và “văn chương” là sắc đẹp, tài năng của Tiểu Thanh. Đó là cái đẹp toàn mĩ. Nhưng xã hội phong kiến đâu có chấp nhận nó, nên tài tử đành nuốt hận nơi suối vàng. Với chúng ta, những người đời sau hôm nay còn tiếc, còn thương Tiểu Thanh nhiều lắm ! Nhưng với Nguyễn Du, nó còn là sự trân trọng tài năng, gián tiếp gợi nên sự căm ghét, khinh bỉ những gì chà đạp lên tài năng đó. Nguyễn Du khóc Tiểu Thanh chứng tỏ ông đã hiều nàng nhiều lắm… ở một nơi xa, Nguyễn Du đang hướng về nơi ấy, nơi ấy có một người con gái tài sắc mà oan khổ lưu li. Tiếng thơ đọc lên nghe mà êm dịu, đồng cảm vậy thôi, nhưng … nó như một tiếng nấc, tiếng nghẹn đến tức lòng. Nó như thét, như gào muốn xã hội phải trả lại quyền tự do cho cái tài và cái đẹp. |
Hai câu luận bắt đầu khái quát, nâng vấn đề, liên hệ thân phận của nàng Tiểu Thanh với những bậc văn nhân tài tử trong đó có nhà thơ:
“Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi. Cái án phong lưu khách tự mang”. Trong câu thơ dịch, chữ “nỗi hờn” (nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi) chưa diễn đạt được hết ý nghĩa của hai từ “hận sự”. Vậy mối hận “cổ kim” ở đây nghĩa là gì? Đó là mối hận của người xa (như Tiểu Thanh) và người thời nay (những người phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” đang sống cùng thời với Nguyễn Du, thậm chí cả những con người có tài năng thơ phú như nhà thơ Nguyễn Du nữa). Họ đều là những người đã gặp bao điều không may trong cuộc sống. Từ đó, nhà thơ của chúng ta cho rằng: Có một thông lệ vô cùng nghiệt ngã đó là ông trời luôn bất công với những con người tài sắc. Sự bất công ấy đâu chỉ đến với riêng người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Tiểu Thanh mà còn là nỗi hận của bao người (những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…). Nỗi hận ấy từ hàng trăm năm nay đâu có gì thay đổi. Bởi vậy nó như một câu hỏi lớn không lời đáp cứ treo lơ lửng giữa không trung đến “ông trời” cũng “không hỏi được”. |
Hai câu kết là tiếng lòng của nhà thơ mong tìm thấy một tiếng lòng đồng cảm của người đời sau:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa Người đời ai khóc Tố Như chăng? Hai câu cuối lạ, chuyển ý bất ngờ, niêm luật không chú trọng mà không lạc dòng cảm xúc. ý tứ đến cũng tự nhiên và hợp lí. Từ thương người, Nguyễn Du chuyển mạch đến thương mình. Hai câu thơ kết cấu thành một câu hỏi. Câu hỏi hướng đến những điệu hồn tri âm. Không hỏi quá khứ, không hỏi hiện tại, vì quá khứ và hiện tại đều bế tắc. Câu hỏi hướng đến tương lai. Nguyễn Du cũng không hỏi trời, ông hỏi người vì còn mong ở đời có thể tìm thấy những tri âm. Với nàng Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn thức”, không biết “với mình” liệu ba trăm năm sau có ai biết đến mà cảm thông ? Câu thơ trĩu nặng. Hai từ bất tri (không biết) đầy tủi hổ tưởng có thể buông xuôi. Nhưng câu thơ vẫn là một niềm tin. Nguyễn Du vẫn tin ở nhân tâm của con người. Thơ hoài cổ thường là tiếng khóc dành cho những cố nhân. Thơ Nguyễn Du không hoàn toàn như vậy. Nhớ đến, thương đến cố nhân, tác giả chạnh lòng thương chính bản thân mình và những người nghệ sĩ. Nó chính là khởi nguồn cho cảm hứng nhân văn cao cả của bài thơ. Giá trị nhân bản đặc sắc của bài thơ là ở chỗ Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề về quyền sống của người nghệ sĩ. Từ sự thương xót và đồng cảm với Tiểu Thanh, nhà thơ muốn gửi gắm sự trân trọng của mình đến những người nghệ sĩ nói chung – những chủ nhân của những giá trị tinh thần. Bày tỏ sự cảm thông chia sẻ với họ là một dấu hiệu tiến bộ trong chủ nghĩa nhân bản của Nguyễn Du. Tình thương yêu và sự quan tâm của nhà thơ lúc ấy đã vượt qua những giới hạn về không gian và thời gian. Nó không chỉ là sự quan tâm chia sẻ với những con người bất hạnh (những cảnh đói cơm, rách áo) mà hơn thế nữa còn là sự thương yêu và trân trọng con người nói chung. |
Với nghệ thuật sáng tạo ngôn từ, hình ảnh hàm súc cao độ, bài thơ thể hiện nổi bật tâm trạng xót thương, day dứt của Nguyễn Du đối với nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh. Tác giả sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những mặt đối lập trong hình ảnh, ngôn từ. Ngôn ngữ thơ trữ tình, đậm chất triết lí. |
Tóm lại, qua bài thơ, tác giả thể hiện một tư tưởng nhân đạo rất sâu sắc : Con người hãy biết thương yêu đồng loại, trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, hãy đừng vô tình với nỗi đau của mọi người. Bài thơ còn thể hiện một khát khao cháy bỏng của người nghệ sĩ, đó là khát khao được đồng cảm, được thấu hiểu và được sẻ chia. |