
Phân tích bài thơ “Đôi bàn chân mẹ” của Nguyễn Văn Song
Đôi bàn chân mẹ
Đôi bàn chân mẹ không hồng
Dáng thô, ngón toẽ, chai phồng nắng mưa
Một đời đi sớm về trưa
Kể bao nhiêu chuyện ngày xưa lặng thầm
Mùa Đông mẹ lội xuống đầm
Gót chân nứt dưới bùn ngâm tê người
Môi trầu thâm tái nụ cười
Cái tôm cái tép có lời thảo thơm?
Trưa Hè tãi thóc, lật rơm
Bàn chân sấp ngửa chạy cơn mưa rào
Ai làm giông gió ba đào
Để cho bóng mẹ ngã nhào đổ xiêu
Quẩn quanh đồng ruộng sớm chiều
Mẹ không vượt núi băng đèo dặm xa
Oằn vai gánh phận đàn bà
Rạc đôi chân mỏi lội qua bến đời
Mẹ giờ ở cõi xa xôi
Bàn chân nằm nghỉ giữa trời mây bay
Con về nhà cũ chiều nay
Thấy trong vườn mẹ vẫn đầy dấu chân.
– Nguyễn Văn Song
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, bài thơ.
– Nêu ý kiến chung: “Đôi bàn chân mẹ” là bài thơ xúc động, giàu tình cảm, khắc họa chân dung người mẹ tần tảo, hy sinh qua đội bàn chân lam lũ. Qua đó thể hiện lời tri ân sâu sắc của người con dành cho đấng sinh thành và ngợi ca vẻ đẹp bình dị, cao cả của tình mẫu tử.
II. Thân bài
a) Phân tích nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
* Nét đặc sắc về nội dung
– Ý nghĩa nhan đề:
+ Miêu tả một bộ phận cơ thể rất đỗi đời thường của người mẹ – đôi bàn chân.
+ “Đôi bàn chân mẹ” là biểu tượng cho sự tần tảo, chịu thương chịu khó của cuộc đời mẹ.
+ Khơi gợi sự gần gũi, thân thuộc và lòng trắc ẩn, thương yêu của người đọc đối với hình ảnh người mẹ.
– Mạch cảm xúc của bài thơ: 5,5
+ Bốn câu thơ đầu: mạch cảm xúc bắt đầu từ sự xót xa, thương cảm khi chứng kiến đôi bàn chân mẹ “không hồng”, “chai phồng nắng mưa”, gợi lên một cuộc đời “đi sớm về trưa”, “lặng thầm”, vất vả.
+ Mười hai câu tiếp theo: cảm xúc được đẩy lên cao trào qua hồi ức về những công việc cực nhọc của mẹ “lội xuống đầm”, “tãi thóc, lật rơm” và những gian truân mẹ phải đối mặt “giông gió ba đào”. Nỗi xót xa, day dứt được thể hiện rõ qua câu hỏi tu từ “Ai làm giông gió ba đào,…”. Đây là sự đồng cảm sâu sắc với gánh nặng cuộc đời mẹ.
+ Bốn câu thơ cuối: mạch cảm xúc lắng đọng trong sự hoài niệm, tri ân, nhớ thương khi mẹ đã khuất. Tuy mẹ đã “ở cõi xa xôi” nhưng “dấu chân” mẹ vẫn còn “đầy trong vườn”, thể hiện sự hiện hữu vĩnh cửu của mẹ trong lòng con và trong những giá trị mẹ để lại. Đây là sự nối dài của tình yêu thương, vượt qua không gian và thời gian.
* Nét đặc sắc về nghệ thuật
– Thể thơ lục bát mang âm hưởng thơ truyền thống, tạo nhịp điệu nhẹ nhàng, sâu lắng phù hợp với dòng cảm xúc hoài niệm, tri ân.
Cách gieo vần, ngắt nhịp tạo sự hài hòa, nhịp nhàng, cân đối cho bài thơ.
– Hình ảnh thơ giàu sức gợi, tạo ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
– Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu cảm xúc.
– Giọng điệu xúc động, chân thành tha thiết.
– Bài thơ sử dụng các biện pháp tu từ: liệt kê, ẩn dụ, hoán dụ, câu hỏi tu từ, nói giảm nói tránh,…
c) So sánh, mở rộng
Các em liên hệ mở rộng đến các bài thơ cùng chủ đề để chỉ ra điểm gặp gỡ và sáng tạo riêng của tác giả.
d) Đánh giá:
– Những đặc sắc nghệ thuật đã làm nên thành công của tác phẩm.
– Giúp bài thơ thể hiện một cách sâu sắc chủ đề về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
III. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của bài thơ: “Đôi bàn chân mẹ” là một tác phẩm thành công trong việc ca ngợi tình mẫu tử, sự hy sinh cao cả của người mẹ.
Liên hệ: Bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc, khơi gợi lòng biết sự trân trọng đối với những người mẹ. Là lời nhắc nhở về thường của thời gian và tầm quan trọng của việc yêu thương, báo hiếu khi còn có thể.
Bài làm tham khảo
Trong kho tàng văn học Việt Nam, đề tài người mẹ luôn là nguồn cảm hứng bất tận, khơi gợi nhiều cung bậc cảm xúc sâu lắng. Với bài thơ “Đôi bàn chân mẹ”, nhà thơ Nguyễn Văn Song đã chọn một hình ảnh rất đỗi bình dị và gần gũi – đôi bàn chân để khắc họa chân dung người mẹ tảo tần, lam lũ, cả đời hy sinh vì con. Bài thơ là lời tri ân sâu sắc của người con dành cho đấng sinh thành, đồng thời là bản ngợi ca thấm đẫm yêu thương về vẻ đẹp thầm lặng của tình mẫu tử.
Chỉ bốn chữ “Đôi bàn chân mẹ” nhưng đủ gợi mở biết bao cung bậc xót xa và trìu mến. Đôi chân ‒ bộ phận ít ai để ý lại chính là “nhật kí” khắc tạc bao vất vả lặng thầm. Tiêu đề vì thế vừa hiện thực, gần gũi, vừa hoán dụ cho chặng đường dài mẹ trải qua: những buổi “đi sớm về trưa”, những mùa mưa nắng hun hút, những nỗi lo cơm áo, gạo tiền… Nhan đề giống tiếng gọi thiết tha, mời ta cúi xuống, cúi thật thấp, để thấy dưới lớp chai phồng ấy là cả một trời hy sinh lặng thầm.
Khổ thơ mở đầu như thước phim cận cảnh, phóng chiếu đôi chân “không hồng/ Dáng thô, ngón toẽ, chai phồng nắng mưa”. Sự đối lập giữa vẻ “không hồng” với “chai phồng” làm bật lên những vết thời gian hằn sâu, gợi thương, gợi xót. Một chữ “không” đặt ngay đầu câu, dẫu nhẹ nhàng, nhưng âm vang như tiếng thở dài.
Tám câu thơ kế tiếp là cuộn sóng ký ức: đông về “lội xuống đầm”, gót chân “nứt” se cắt, hè sang “tãi thóc, lật rơm”, lại hớt hải “chạy cơn mưa rào”. Mỗi việc nhỏ nhặt thường ngày được ghi lại bằng những động từ chân thật (“lội”, “tãi”, “chạy”) để khắc đậm nỗi nhọc nhằn. Câu hỏi tu từ “Ai làm giông gió ba đào/ Để cho bóng mẹ ngã nhào đổ xiêu?” bỗng khiến không gian thơ bão nổi: giông gió ấy là thiên tai hay chính kiếp nghèo cứ chực cuốn mẹ đi? Lời hỏi không tìm câu trả lời, bởi câu trả lời đã nằm trong tiếng nấc nghẹn của người con.
Khổ thứ ba thu hẹp không gian từ ruộng đồng mênh mông vào quỹ đạo “quẩn quanh sớm chiều”. Mẹ “không vượt núi băng đèo”, hành trình tưởng nhỏ nhoi nhưng “oằn vai gánh phận đàn bà/ Rạc đôi chân mỏi lội qua bến đời”. Hình ảnh “bến đời” gợi con nước thời gian trôi miệt mài, còn mái chèo duy nhất chính là đôi chân gầy guộc của mẹ. Biện pháp ẩn dụ khiến câu thơ vừa đằm thắm, vừa nhức nhối như một khung cảnh chiều đông tím tái.
Khi người đọc đang trôi dần theo dòng hồi ức, hai câu “Mẹ giờ ở cõi xa xôi/ Bàn chân nằm nghỉ giữa trời mây bay” bỗng trầm xuống, khép lại hành trình hữu hình của mẹ. Dấu chấm câu hiếm hoi đứng cuối dòng thơ như tiếng chuông ngân chậm, báo tin ly biệt. Thế nhưng nghịch lý thơ ca xảy ra ngay sau đó: “Con về nhà cũ chiều nay/ Thấy trong vườn mẹ vẫn đầy dấu chân”. Mẹ khuất núi, nhưng dấu chân còn in trên đất, trên lá cỏ, trên tâm hồn con. Hình ảnh ấy chạm vào tận sâu tiềm thức: mẹ đã hóa thành kỷ niệm, thành hơi thở quê nhà, thành vị mặn mồ hôi trong từng nhát cuốc, giọt mưa.
Bài thơ viết bằng thể lục bát truyền thống, duyên dáng mà dung dị. Nhịp 6/8 lắng chậm, giai điệu uốn lượn hòa cùng giọng kể thì thầm, như tiếng ru buổi trưa hè. Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Song đặc biệt thành công ở thủ pháp hoán dụ và ẩn dụ: từ đôi chân phóng chiếu cả đời người; từ vết “chai phồng” gợi ra thăm thẳm lam lũ; từ bóng mẹ “ngã nhào đổ xiêu” xô trào nỗi thương đau. Liệt kê “cái tôm cái tép”, “tãi thóc, lật rơm, từ láy giàu âm sắc “bát ngát”, “ba đào” tạo chất mộc mạc, thôn dã, khiến bức tranh quê vừa chân thực lại vừa lung linh hơi ấm tình thân.
“Đôi bàn chân mẹ” khép lại nhẹ nhàng như một lời thì thầm từ quá khứ vọng về hiện tại, đánh thức trong lòng mỗi người những rung động sâu xa về tình mẫu tử. Đôi chân thô ráp, chai sạn của mẹ không chỉ in dấu trên những nẻo đồng quê mà còn in đậm trong ký ức, trong tâm hồn người con với tất cả sự biết ơn và yêu thương vô hạn. Bài thơ như một nén hương lòng, một lời tri ân lặng lẽ mà sâu sắc gửi đến những người mẹ thầm lặng trên khắp cuộc đời này. Để rồi, khi gấp trang thơ lại, ta chợt muốn bước chậm hơn giữa cuộc sống vội vã, để lắng nghe bước chân mẹ dù đã xa vẫn đang âm thầm nâng đỡ và dẫn lối ta đi qua những chặng đường đời.