Site icon Lớp Văn Cô Thu

Phân tích nhân vật “A Phủ” trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

I – Mở Bài

Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Đấy là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong hai nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong truyện ngắn này.

II – Thân Bài

1. Cách giới thiệu nhân vật.

Trong tác phẩm tác giả không giới thiệu nhân vật A Phủ theo trình tự tuyến tính của thời gian mà để cho nhân vật xuất hiện đầy bất ngờ, đường đột trong một cuộc hỗn chiến với A Sử.

A Sử vốn là con quan, nên dù có vợ rồi, nó vẫn muốn đi bắt vài đứa con gái nữa về làm vợ. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ là không ai dám động vào. Có lẽ vì thế mà A Sử tha hồ ngông ngược quậy phá. Nó vào làng trêu con gái, thậm chí còn đánh cả trai làng. Mâu thuẫn đã diễn ra từ đêm hôm trước, và được giải quyết vào sáng hôm sau. A Sử dẫn đầu nhóm đến để tìm trai làng, còn trai làng dẫn đầu là A Phủ. Chỉ cần nhìn thấy bọn A Sử trai làng đã xôn xao và cất tiếng gọi A Phủ: A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi! Không phải ngẫu nhiên mà A Phủ lại được gọi tên lên trong một nhóm các trai làng. Hẳn là vị trí của A Phủ không đơn giản như những chàng trai kia. Điều này phần nào bộc lộ phẩm chất con người, bản tính của A Phủ. Cách để nhân vật xuất hiện với những câu hỏi bỏ ngỏ lại trong lòng người đọc khiến cho họ phải cuốn theo mạch truyện để tìm hiểu rõ ngọn nguồn về nhân vật.

A Phủ hiện lên rất chân thực, sống động và mạnh mẽ trong trận trả đũa A Sử. Thân hình là một chàng trai to lớn. Với hàng loạt những động từ mạnh mà tác giả sử dụng rất đắc địa trong những câu văn với các vế câu ngắn, nhanh, mạnh, ngắn gọn, gấp gáp: A Phủ chạy vụt ra ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Với những hành động của A Phủ người đọc nhận thấy rất nhiều gợi ý về con người này. Không chỉ là một sức mạnh của một con người cường tráng. Mà đó còn là phẩm chất của một con người thấy chuyện bất bình không bỏ qua. Thậm chí khi biết đó là con quan nhưng cũng không sợ. Thậm chí A Phủ biết đánh con quan là mắc tội chết, nhưng vẫn làm vì bản tính của một con người ngay thẳng không chịu khuất phục trước cường quyền. Với những hành động mà A Phủ đánh A Sử còn cho thấy sức mạnh từ nội tại bên trong một con người – một Lục Vân Tiên của thời hiện đại. Lần theo thời gian, tác giả đưa ta về với tuổi thơ đầy sóng gió của A Phủ.

2. Lai lịch của A Phủ.

Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ – một mầm sống khỏe. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi cao khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người khác để sống, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi. A Phủ cứ thế lớn lên và trưởng thành với núi rừng Tây Bắc và mang đầy đủ, trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của những con người nơi đây.

3. Phẩm chất của A Phủ.

A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động. A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia đình, hạnh phúc?

4. Con đường đẩy A Phủ vào kiếp nô lệ.

Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con quan. Hành động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ một mối thù giai cấp gay gắt. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ.

a. Cảnh xử kiện có một không hai.

  Thông thường khi xử kiện thì có bên nguyên, bên bị, có người làm chứng, có quan phân xử. Ở cuộc xử kiện này có đầy đủ những thành phần đó nhưng sắp xếp đầy phi lí. Người kiện chính là A Sử, người xử kiện lại là thống lí Pá Tra đồng thời cũng là người cho vay tiền. Cán cân công lí đã xoay vần theo sức mạnh của quyền lực và tiền bạc.

  Xử kiện thì phải diễn ra chốn công đường thâm nghiêm, minh bạch. Tất cả phải tỉnh táo về tinh thần. Ấy vậy mà cuộc xử kiện diễn ra ngay trong nhà Pá Tra. Và điều đặc biệt hơn nữa là ở đó lại chuẩn bị một tiệc cỗ và tiệc hút. Các quan chức, thống quán, xéo phải kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Người bị xử, là trung tâm của buổi xử kiện thì không được nói một lời nào. Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như mặt hổ phù”. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Cứ liên tục quay vòng những hành động: Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Và không chỉ diễn ra trong chốc lát cảnh tượng xử kiện hãi hùng này mà nó kéo dài suốt chiều, suốt đêm. Đúng là cảnh tượng xử kiện có một không hai trong lịch sử văn học. Sự bất công, độc ác trong cuộc xử kiện đã lột trần bộ mặt thật của bọn chúa đất phong kiến miền núi.

Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”.

Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công cho nhà thống lí. Đáng ra với tội đánh con quan thì A Phủ sẽ bị xử tội chết nhưng A Phủ được tha cho mạng sống để làm nô lệ để trả nợ cho Pá Tra “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Và số tiền mà A Phủ phải vay để thiết đãi các quan làng xử kiện là 100 đồng bạc trắng. Không có tiền phải vay nhà thống lí. Cảnh thống lí cho A Phủ vay tiền cũng nghịch lí không kém gì cảnh xử kiện. Pá Tra lấy tráp ở ngăn bàn ra, để mở trăm bạc trắng rồi đưa cho A Phủ sờ tay vào coi như đã nhận tiền rồi cúng trình ma nhận mặt con nợ. Vẫn là một lối mòn cũ, giống như đã làm với Mị: dùng cường quyền để ép A Phủ, sau đó dùng thần quyền để mê hoặc: cúng trình ma để con nợ không còn có ý định trốn thoát nữa. A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của thống lí Pá Tra.

5. Cuộc sống của A Phủ ở nhà thống lí.

Từ đây A Phủ sống cuộc đời của thân phận nô lệ, bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Quanh năm A Phủ bôn ba một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Với sức vóc của một chàng trai khỏe mạnh, lại biết công biết việc nên công việc làm hay đi săn cứ đi phăng phăng. Điều đặc biệt là chúng ta tự hỏi vì sao một chàng trai khao khát tự do, không chịu gò mình vào khuôn phép nào lại chấp nhận sống kiếp nô lệ cho nhà thống lí? Phải chăng cũng vì công việc mà A Phủ đang làm vẫn đảm bảo cho chàng trai này cuộc sống tự do như mong đợi, vẫn như ngày chưa đi ở cho nhà Pá Tra. Tự do giữa núi rừng với thiên nhiên, cây cỏ, muông thú.

6. Bi kịch tính mạng và số phận của A Phủ.

Nếu cuộc đời làm nô lệ của A Phủ cứ thế trôi đi êm đềm thì chắc chẳng bao giờ có thêm bước ngoặt nào trong cuộc đời chàng trai này. Nhưng cuộc đời là sóng gió, là phong ba, chỉ với một việc cỏn con mà tính mạng của A Phủ bị đe dọa…

Vào mùa năm đó, khi hổ, gấu đang đói, chúng kéo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa, do mải mê bẫy nhím nên A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết lại được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc, tự đóng cọc, và lấy dây mây để trói mình. Pá Tra bắt và cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Người đọc có lẽ cảm giác thấy đau đớn, xót xa bởi mạng sống của một con người mà không bằng một con bò – quá rẻ mạt. Con người không được làm chủ cuộc đời, không bảo vệ được sinh mạng của mình. Đó là lời tố cáo chế độ xã hội đương thời đã bóp nghẹt quyền sống của con người. A Phủ hay Mị đều một thân phận nô lệ như nhau.

Sau mấy ngày bị “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã đặt tay lên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. Cận kề bờ vực của cái chết: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Một câu văn với sự dự đoán nhưng như lời khẳng định chắc nịch theo các thành phần vị ngữ được ngắt ra dứt khoát: chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. Không có một con đường nào khác. Đó là bi kịch của số phận một con người. Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt đồng cảm xót thương với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, một mặt khác vừa vạch trần bộ mặt tàn bạo, dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ.

7.Sức sống mãnh liệt trỗi dậy khi cận kề cái chết.

Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, với bản chất gan góc, bất khuất sẵn có đã tiềm ẩn trong dòng máu của mình, A Phủ không chịu tìm cái chết mà tìm mọi cách tự giải thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một bên tay”. Nhưng nếu một mình, với chút sức lực yếu đuối của mình thì A Phủ không thể tìm được lối thoát trong thân phận của một người nô lệ. Và khi có sự trợ giúp của Mị, cả hai đã đứng lên tự giải phóng và tìm được đường đi cho mình, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. A Phủ đã bị trói đứng mấy ngày, không được ăn uống, lại chịu cái lạnh cắt da cắt thịt của vùng núi cao Mị tưởng A Phủ đã chết rồi nếu không thấy A Phủ mở mắt và nước mắt bò xuống hai hõm má. Lúc ấy, mị thấy A Phủ thở phè phè, không biết là mê hay tỉnh. Nhưng với quá trình đấu tranh tâm lí đầy giằng xé của mình, Mị đã quyết định tiến lại gần cầm dao cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ. Bản thân Mị cũng hốt hoảng nhưng cuối cùng hành động đó cũng xảy ra. Dù Mị chỉ thì thào một tiếng “đi ngay”. Khi vừa cởi được dây trói thì “A Phủ khuỵu xuống, không bước nổi”. Ta cứ tưởng khi Mị cắt dây trói A Phủ sẽ gục ngã, nhưng không, khi đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, thậm chí là cái chết đang cận kề thì bản năng sống của con người sẽ trỗi dậy, bùng lên mạnh mẽ mà không một thế lực nào cản trở nổi. A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi”. Với A Phủ lúc này chỉ có con đường chạy trốn mới tìm được lối thoát cho cuộc đời, mới giữ được tính mạng và giải phóng khỏi kiếp nô lệ. A Phủ và Mị trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, bản làng quê hương mình. Từ đấu tranh tự phát A Phủ và Mị tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Nếu đứng lên đấu tranh đơn lẻ, một mình sẽ không bao giờ giành được thắng lợi, nhưng nếu biết đoàn kết hợp sức nhau lại thì thắng lợi sẽ nằm trong tầm tay. Minh chứng là cuộc sống đổi thay của nhân dân vùng núi Tây Bắc khi cách mạng về, tập hợp quần chúng nhân dân dưới lá cờ thống nhất của Đảng lãnh đạo và đưa cuộc cách mạng đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

III – Kết luận:

Khắc họa nhân vật thông qua những hành động, A Phủ hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng cổ trang, kiệm lời mà sống động. Dù số phận của Mị và A Phủ có những điểm chung nhưng cách miêu tả và khắc họa chân dung hai con người thì không giống nhau. Nhưng đó là số phận tiêu biểu cho người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, của tự do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

🔻 Xem thêm:

Exit mobile version