Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Học văn 12] Chất thơ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

I/ MỞ BÀI

Tô Hoài là cây bút nổi tiếng ở thể loại truyện ngắn của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Nhắc đến truyện ngắn của ông không thể không nhắc đến tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Trong thiên truyện ngày, người đọc không chỉ ấn tượng bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn dễ dàng rung động trước chất thơ thấm đượm qua từng câu chữ.

II/ THÂN BÀI

Chất thơ trữ tình có thể được hiểu là vẻ đẹp lãng mạn trong một tác phẩm. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện thực. Nó tương phản với đời sống hiện thực nhưng lại trong một thể thống nhất. Nếu hiện thực là miêu tả những cái vốn có, hiện có thì vẻ đẹp lãng mạn là ước mơ, là lí tưởng để nâng đỡ con người vượt qua đời sống hiện thực vốn trần trụi, quen nhàm. Vì vậy, vẻ đẹp lãng mạn hay chất thơ của tác phẩm là đối tượng tìm kiếm của mọi ngành nghệ thuật. Văn xuôi cũng đi tìm cho nó một vẻ đẹp rất riêng.

Một người nghệ sĩ tài ba, một người nghệ sĩ mẫn cảm là người phải tìm thấy chất thơ của cuộc sống, hương vị của cuộc đời ở những chỗ tưởng chừng như không có một chút thơ mộng nào. Tô Hoài là một nhà văn như thế, bởi “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm thấm đẫm và lai láng chất thơ. Ta nhận thấy từ thiên nhiên nói đây cho đến cuộc sống con người từ tảng đá, bìa rừng cho đến những nỗi khổ đau của con người nơi đây đều được bao bọc trong một không khí bàng bạc tựa như sương núi, tựa như ánh trăng. Không khí ấy chính là chất thơ trữ tình của nhà văn Tô Hoài. Đây là một trong những lí do tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được giải thưởng văn học năm 1954-1955 và được xem như một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài miền núi Tây Bắc.

Như đã nói chất thơ hay vẻ đẹp lãng mạn chính là vẻ đẹp của thiên nhiên, của tình người. Đến với vẻ đẹp lãng mạn trong “Vợ chồng A Phủ”, ấn tượng đầu tiên của người yêu văn đó chính là vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên nơi đây. “Vợ chồng A Phủ” lấy bối cảnh là thiên nhiên rẻo cao Tây Bắc – một khung cảnh vô cùng nên họa nên thơ mà đã hơn một lần bước vào những trang văn của Nguyễn Tuân: nơi ấy có thung lũng lúa chín vàng, có đá chìm đá nổi, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ… Khung cảnh thiên nhiên ấy đã được Tô Hoài triển khai một cách rất cá tính, rất sáng tạo. Nói đến thiên nhiên nơi đây thì phải nói đến nơi có ngọn núi quanh năm ngập trong mây và sương mù; nơi có những cánh rừng bạt ngàn nương rẫy khi thì xanh mướt lúa ngô, khi thì sặc sỡ hoa thuốc phiện nơi có những bản làng tụ quanh nguồn nước và dòng suối… Hàng ngày, từng đàn gia súc được lùa ra trên khắp bản làng. Chiều về, cả con người và cảnh vật chìm dần trong hơi sương. Đêm đến, họ vây quanh đống lửa bập bùng.

Đọc những trang văn của Tô Hoài, người yêu văn còn bắt gặp hình ảnh của người dân rẻo cao đi làm nương, đi hái củi, hái lá, trỉa bắp, chăn thả bò ngựa. Đời sống của họ lam lũ, vất vả nhưng nhịp sống của họ đều đặn, êm đềm trôi hết năm này sang năm khác. Chưa một lần đặt chân lên rẻo cao Tây Bắc, chưa một lần đến với con người nơi đây nhưng những trang văn đầy thơ mộng của Tô Hoài đã đưa người yêu văn đến chứng kiến cuộc sống của con người ở rẻo cao này. Từ nhận thức ấy, mỗi người yêu văn tự rút ra cho mình một bài học nhân sinh bởi văn học luôn thanh lọc tâm hồn của người đọc, nó mang đến, chất chứa biết bao nhiêu nỗi khổ đau. Nó như một trang đời mà người yêu văn có thể rút ra những bài học qua từng chữ từng câu.

Không chỉ dừng lại ở đó, chất thơ của câu chuyện còn được bút lực của nhà văn Tô Hoài tập trung miêu tả ở khung cảnh mùa xuân nơi rẻo cao Tây Bắc. Có thể khẳng định những trang văn viết về mùa xuân của nhà văn Tô Hoài là những trang văn tuyệt bút. Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao, viết về mùa xuân ấy chẳng khác nào những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Nghệ thuật này ta đã từng bắt gặp ở ngòi bút của Thạch Lam trước Cách mạng ở Nguyễn Tuân khi ông viết tùy bút “Sông Đà”.

Năm ấy xuân về sớm hơn mọi năm, Hồng Ngài có tục lệ cứ gặt hái xong là ăn tết. Tác giả miêu tả những làn gió đẹp mùa xuân về trên khắp bản làng. Tất cả không khí nơi đây đều là không khí ngày hội. Trên những bản của người Mèo Đỏ, trai gái mang váy áo ra phơi trên mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm khổng lồ. Chất thơ của xứ sở đây còn được tụ vào trong những đám hội. Ban ngày, từng đám thanh niên mặc váy áo mới xòe ô dắt ngựa đến đánh quay, ném pao, tung coòng… Tối đến, trong không gian kia những tiếng khèn lá, khèn môi của trai gái gọi bạn tình lại réo rắt đi hết quả đồi này sang quả đồi khác… Tất cả những không khí lễ hội mùa xuân này làm câu chuyện hiện lên không chỉ đẹp về cảnh sắc thiên nhiên mà còn đẹp về lễ hội mang tính lịch sử của dân tộc.

Như vậy rõ ràng thiên nhiên trong tác phẩm này mang đầy chất thơ. Mà thiên nhiên lại là cái nôi để con người ta sinh ra và lớn lên trên đó. Đứng trong cái nôi thiên nhiên đầy chất thơ này, nhà văn đã tập trung vào để đi tìm chất thơ trong tâm hồn của con người rẻo cao Tây Bắc: chất thơ của tình người. Nếu đi tìm chất thơ trong một tác phẩm văn xuôi mà ta chỉ dừng lại ở khung cảnh thiên nhiên thôi thì vô hình chung ta đã coi tác phẩm này như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi rồi. Trong một tác phẩm văn xuôi, yếu tố quyết định đến sự thành bại của nó không gì khác hơn chính là nhân vật. Nhân vật càng chân thực, sống động bao nhiêu tác phẩm càng thành công bấy nhiêu. Vì vậy, chất thơ trong tác phẩm còn được tập trung ở vẻ đẹp của nhân vật, vẻ đẹp của tình người.

Đầu tiên ta thấy ở đây, nhà văn tập trung miêu tả tình người ở những con người ở rẻo cao Tây Bắc. Họ đang phải sống trong địa ngục trần gian, phải sống ở Hồng Ngài – nơi cái ác hiện lên từng ngày từng giờ và phát triển đến cùng cực. Như đã biết, truyện xoay quanh cuộc đời của Mị – một cô gái nết na xinh đẹp được ví như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc nhưng vì món nợ truyền kiếp mà bố mẹ Mị vay của thống lí Pá Tra, Mị đã bị thống lí bắt về trừ nợ. Ở nhà thống lí – nơi hang hùm nọc rắn, nơi thiên la địa võng, nơi cái ác lúc nào cũng muốn lăm le hòng tiêu diệt bản tính tốt đẹp của con người. Nhưng không phải vì thế mà người dân vùng cao bị sói mòn tình người, bị cằn cỗi tâm hồn. Ngược lại, ngay trong địa ngục trần gian ấy, lòng tốt của con người vẫn được bộc lộ, đức tính tốt đẹp của con người vẫn thăng hoa, cái đẹp vẫn nổi loạn ngay trong lòng cái ác. Điều này được thể hiện rất rõ giữa sự giằng xé của tình phụ tử giữa cha con nhà Mị.

Mị tuy đang sống hạnh phúc trong những ngày với mối tình đầu của mình nhưng vì thương cha Mị đành chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra. Vào cái nơi địa ngục trần gian này, có những lúc Mị tưởng chừng như không tồn tại được. Mị đã từng nghĩ đến cái chết. Nhưng về đến nhà, thấy rõ gia cảnh nhà mình, thấy bố Mị nói như van xin: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!” Mị đã phải đứng trước một tình huống oái oăm, éo le, cay cực: sống không muốn, chết cũng không xong. Cuối cùng, Mị đã không chết bởi Mị không bước qua được tình phụ tử, không bước qua được chữ “hiếu”. Nói cách khác, chữ “hiếu” đã giúp Mị tồn tại để vượt qua cái hang hùm nọc rắn này. Như vậy ở đây, chữ “hiếu” vẫn thăng hoa, lòng tốt của con người vẫn được gìn giữ ngay ở trong địa ngục trần gian.

Còn về phía người cha già cả cuộc đời lam lũ vất vả, mong sao thoát khỏi cảnh nghèo nhưng cũng không xong, bị lâm vào bước đường cùng và phải gả bán con gái cho nhà giàu mà ruột gan tan nát. Như vậy, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện thấy ở đây tình người, tình phụ tử của cha con nhà Mị đã chiến thắng ở trong ngục tối, muốn khẳng định rằng tất cả những gì là tốt đẹp của cuộc đời không bao giờ bị hủy diệt. Cái đẹp luôn luôn tồn tại mãi cùng với thế giới. Dù nó có phải sống trong lòng của ngục tối, trong lòng của cái ác thì cái đẹp cuối cùng vẫn chiến thắng.

Bên cạnh đó, tình người ở đây còn được thể hiện rất rõ ở sự thương cảm Mị dành cho A Phủ. Thân phận của Mị và A Phủ cũng chẳng hơn nhau gì. A Phủ là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống bộc trực thẳng thắn. Một lần đánh lại A Sử con quan, A Phủ đã bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm nô lệ. Hàng ngày A Phủ phải đi chăn thả bò ngựa, đi săn bò tót, bẫy nhím…một lần mải mê bẫy nhím, A Phủ đã để hổ vồ mắt một con bò. Nhân sự kiện này, gia đình nhà thống lí Pá Tra đã đánh trói A Phủ giữa những ngày đầy sương muối ở vùng cao.

Đêm nào dậy cời than để hơ tay, Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng cô không động lòng thương bởi sống quá lâu trong địa ngục trần gian nơi việc đánh trói con người xảy ra nhiều hơn cơm bữa, lòng thương người của Mị đã bị chai sạn, trơ lì. Hôm nay thì khác. Nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị nhìn sang, giật mình nhận thấy chàng trai to khỏe nhất bản giờ đã bị đánh đến tiều tụy. Đúng lúc ấy, hai hàng nước mắt của A Phủ lặng lẽ bò xuống hõm má. Có lẽ hai dòng nước mắt ấy đã thấm sâu vào trong tâm hồn của người con gái Mèo nết na xinh đẹp nhưng đang bị chai sạn, chai lì. Động lòng thương, Mị đã cứu A Phủ và hai người đã giải phóng cho nhau. Tất cả những điều ấy chính là chất thơ của tình người. Nó muốn khẳng định răng cái ác dù hiện ra dưới muôn nẻo của cuộc sống nhưng cuối cùng cũng bất lực trước cái thiện. Cái thiện là bất diệt với cuộc đời.

Một cái nét đẹp nhất trong chất thơ của tình người, quyết định đến tất cả những gì đã nêu trên đó là sức sống tiềm tàng của Mị. Nhân đây ta nhắc qua sức sống tiềm tàng của Mị. Hiểu nôm na, sức sống tiềm tàng sức sống tiềm ẩn dưới đáy sâu tâm hồn của con người. Nó là toàn bộ sức mạnh về tinh thần và thể chất của một con người. Ở nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng được biểu hiện là khát vọng cháy bỏng chân chính muốn sống một cuộc đời hạnh phúc trong tự do. Niềm khao khát ấy âm ỷ cháy dưới đáy sâu tâm hồn của Mị như một ngọn lửa chưa bao giờ tắt hẳn, chỉ chờ thời cơ để bùng lên. Nó như một chồi cây đâm sâu trong lòng đất chỉ chờ cơ hội để phát triển.

Giả sử nếu sức sống ấy chết đi, có nghĩa là Mị không tồn tại thì điều đó đồng nghĩa với cái đẹp đã hoàn toàn thất bại trc cái ác, cái ác đã thăng hoa thì đây không còn là một tác phẩm nhân đạo chân chính nữa. Chính sức sống này đã giúp Mị giải thoát người cùng cảnh ngộ và giải thoát được chính bản thân mình. Chính sức sống ấy đã đưa hình tượng người nông dân trước Cách mạng tăm tối như cuộc đời của Chí Phèo, của chị Dậu, của Anh Pha đến với ánh sáng của Cách mạng. Sức sống ấy đã đưa ra chân lí của thời đại: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những gian khổ, hy sinh. Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy…” (Nguyễn Khải)

Heming way đã từng nói: “Các cuốn sách có sự bất tử của nó. Đó là sản phẩm bền vững của lao động con người. Các đền đài sụp đổ, các tranh tượng rồi tiêu tan, nhưng sách thì tiếp tục tồn tại”. Một trong những cuốn sách ấy là “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài. Ai đã từng một lần đọc tập “Truyện Tây Bắc” hẳn sẽ chẳng thể nào quên truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” với cảnh sắc thiên nhiên con người Tây Bắc và con người nơi đó. Và để lại dấu ấn khó phai trong tâm trí người có lẽ là chất thơ, chất Tây Bắc đậm đặc của thiên truyện. Mang đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về miền đất cực Tây của Tổ quốc.

“Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm văn chương đậm đà chất thơ. Chúng ta đã biết văn xuôi là sợi cốt còn thơ là sợi ngang… “Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc giục, không dẫn dắt ta đi đâu cả”. Phađê ép khẳng định: “Văn vuôi cần phải có cánh. Đôi cánh ấy chính là chất thơ, chất thơ chính là chiếc cầu mềm mại đưa văn xuôi vào hồn người êm ái, dịu dàng”. Bằng tài năng cùng sự nhậy cảm với cuộc đời của mình, Tô Hoài chắp cánh cho những trang văn của mình để chất thơ được bay cao và tỏa sáng một tâm hồn mẫn cảm.

Sự xâm nhập mạnh mẽ của yếu tố trữ tình và chất thơ vào văn xuôi, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn đã làm cho truyện của Bunhin có sức cuốn hút và lay động tâm hồn người đọc, tạo nên đặc sắc trong văn xuôi của ông. Nhà văn K.Pautốpxki cho rằng: “Văn xuôi là sợi cốt, thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa chất thơ sẽ trở thành thô thiển”. Chất thơ như dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng văn xuôi làm cho thể loại này trở nên nhẹ nhàng đằm thắm, bay bổng và dễ đến với tâm hồn đọc giả. Đối với truyện ngắn thì chất thơ và tính trữ tình lãng mạn càng hết sức quan trọng. Về vấn đề này, nhà văn R.Gamzatốp khẳng định: “Truyện ngắn hay nhất nếu bị ghép vần có thể biến thành bài thơ dở nhất. Thơ trong truyện có lẽ như muối trong thức ăn”. Ở một cách hiểu rộng hơn về văn chương đồng thời khẳng định vai trò của chủ thể sáng tạo, M.Prisvin chỉ ra: “Văn chương, đó là thơ ca của cuộc sống nhẹ nhàng. Còn như nghệ thuật, nó thực sự đi ra từ cuộc sống bên trong, một cuộc sống biểu lộ trong ấy cái cảm hứng của con người trước sự bất tử”. Sự thống nhất giữa cái đẹp của đời sống hiện thực và cái đẹp của tâm hồn nhà văn trên cơ sở trí tưởng tượng phong phú của người nghệ sĩ là biểu hiện của chất thơ trong văn xuôi Bunhin. Sự giao hòa giữa tâm hồn nhạy cảm của tác giả với vẻ đẹp của con người và thiên nhiên cũng là một nhân tố tạo nên chất trữ tình sâu lắng.

III. KẾT BÀI

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một trong những tác phẩm hiện thực tiêu biểu nhất khi viết về đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Cái hay của tác phẩm không chỉ đến từ nội dung mang giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc mà còn xuất phát từ những ý thơ trong văn xuôi, đem đến cho người đọc những cái nhìn, những cảm nhận thật sâu sắc về thiên nhiên và con người miền núi phía Bắc. Có thế mới thấy được tấm lòng chân thành, gắn bó sâu nặng với mảnh đất Tây Bắc cũng như tài năng của tác giả trong lĩnh vực văn học hiện thực giai đoạn sau cách mạng.

🔻 Xem thêm:

Exit mobile version