Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Tài liệu văn 9] Tinh thần nhân đạo trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

Đề bài :  Cảm nhận về tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thông qua đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều”

I/ Mở bài

Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, nhắc đến Nguyễn Du, người đọc không khỏi cảm thấy tự hào, kính phục trước tài năng và tấm lòng nhân đạo cao cả của ông. “Truyện Kiều” của ông được coi là kiệt tác ngàn đời trong kho tàng văn chương dân tộc. Một trong những yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm chính là giá trị nhân đạo. Ở vị trí mở đầu của tác phẩm đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du.

II/ Thân bài

1/ Khái quát:

Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du được thể hiện qua sự ngưỡng mộ một vẻ đẹp của người con gái đầu lòng nhà họ Vương. Đặc biệt là sự trân trọng vẻ đẹp tinh thần, tài năng của Thúy Vân, Thúy Kiều. Tấm lòng nhân đạo ấy còn được thể hiện trong dự cảm với số phận nàng Kiều qua bức chân dung được khắc họa.

2. Phân tích

a/  Trước hết tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du được thể hiện ở sự ngợi ca vẻ đẹp tài năng của con người

Với bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “ Mai cốt cách tuyết tinh thần”. Hai hình ảnh ước lệ “ Mai cốt cách” ( cốt cách của cây mai mảnh dẻ thanh cao), “ tuyết tinh thần” (tinh thần trắng và trong sạch như tuyết) đã gợi tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Hai chị em Thúy Kiều cốt cách duyên dáng, thanh cao như cây mai và tinh thần trong trắng như tuyết đó là vẻ đẹp hoàn hảo cả hình thức, lẫn tâm hồn. Hai chị em đều đẹp với vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” xong  mỗi người lại mang một nét đẹp riêng khác nhau “mỗi người một vẻ” đúng là cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của tác giả.

Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân tác giả viết:

“ Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

Chỉ hai chữ “trang trọng” đã gợi tả  ở Thúy Vân một vẻ đẹp cao sang, quý phái vẻ đẹp ấy được so sánh với vẻ đẹp chuẩn mực của thiên nhiên như: “ trăng”, “ hoa”, “ mây”, “tuyết”, “ngọc”… dưới ngòi bút của thi nhân chân dung của Thúy Vân hiện ra từ khuôn mặt, nét ngài, làn da, mái tóc, đến nụ cười, giọng nói, khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm, lông mày sắc nét như con ngài, Miệng cười tươi tắn như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra như hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên, một vẻ đẹp của sự hòa hợp êm đều xung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, ắt hẳn Vân sẽ có một cuộc đời bình yên không sóng gió.

Gợi tả vẻ đẹp của của Thúy Kiều: Tác giả khái quát

 “Kiều càng sắc sảo mặn mà

 so bề tài sắc lại là phần hơn”

Như vậy Nguyễn Du đã miêu tả Thuý Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kỹ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn. Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo, mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều:  sắc sảo của trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Vẫn là những hình tượng nghệ thuật ước lệ được nhà thơ sử dụng để ngợi ca nhan sắc của Thúy Kiều.

“ Làn thu thủy nét xuân sơn

    Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

   Sắc đành đòi một tài đành họa”

Nguyễn Du không thiên về cụ thể như tả Thúy Vân, mà ở đây ông chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn” vẽ hồn của chân dung. Bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của trí tuệ, của tâm hồn. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt.Hình ảnh ước lệ “Làn thu thủy” là làn nước của mùa thu gợn sóng gợi lên thật đẹp sinh động, vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng long lanh, linh hoạt, thăm thẳm. Còn “nét xuân sơn” –  núi mùa xuân, gợi lên đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân, vẻ đẹp của Kiều khiến hoa  phải ghen, liễu phải hờn, nước phải nghiêng, thành phải đổ. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà miêu tả sự đố kị ghen ghét với vẻ đẹp hay sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp ấy “nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói sáng tạo, điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng cái đẹp của Thúy Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người.

Tạo hóa không chỉ ban cho nàng vẻ đẹp tuyệt vời, mà còn phú cho nàng trí tuệ thông minh tuyệt đối:

“ Thông minh vốn sẵn tính trời

  Pha nghệ thi họa đủ mùi cá ngâm

 Cung Thương lầu bậc ngũ âm

   Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương

Khúc nhà tay lửa lên trương

   Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

Tài năng của Thúy Kiều đã đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, đủ cả cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt tài đàn của nàng còn vượt trội hơn cả “lầu bậc ngũ âm”. Nàng đã soạn riêng một khúc “bạc mệnh” mà ai nghe cũng phải não lòng. Đây chính là biểu hiện của con người có trái tim đã sầu, đa cảm. Tả sắc, tài của Thúy Kiều là Nguyễn Du muốn ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự kết hợp sắc, tài, tình đều đạt tới mức tuyệt vời Thúy Vân và Thúy Kiều ở dưới ngòi bút của Nguyễn Du không chỉ có nhan sắc tuyệt vời mà còn có đức hạnh khuôn phép. Dù đã đến tuổi cài trâm búi tóc nhưng hai chị em vẫn:

“Êm đềm trướng rủ màn che

   Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Ngợi ca vẻ đẹp của chi emThúy Kiều Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao giá trị phẩm giá của con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh. Sự ngưỡng mộ, ngợi ca của người phụ nữ trong xã hội “ trọng nam khinh nữ” chính là biểu hiện sâu sắc của cảm hứng nhân đạo.

b/  Tấm lòng nhân đạo ấy còn được thể hiện trong dự cảm về số phận nhân vật Kiều qua bức chân dung được khắc họa.

Dưới ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Du, chân dung Thúy Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp “chim sa cá lặn” của nàng khiến cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác và đố kỵ. Tài năng, trí tuệ thiên bẩm và tâm hồn đa sầu, đa cảm khiến nàng khó tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã. Thi nhân dự báo số phận của Thúy Kiều phải chịu nhiều đau khổ:

“Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thôi má hồng đánh ghen”

Nhất là cung đàn “bạc mệnh” đầy đau khổ, sầu não do Kiều soạn riêng cho mình, như dự báo cuộc đời hồng nhan bạc phận dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh, cũng là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc đối với con người, là biểu hiện của cảm hứng nhân đạo, nhân văn sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật Thúy Kiều ngay từ những vần thơ mở đầu tác phẩm – đoạn trích Chị em Thúy Kiều.

 III. Kết bài

Nguyễn Du – nhà thơ thiên tài của dân tộc ta đã dành toàn bộ tâm huyết, sức lực tài năng để sáng tạo bức chân dung chị em Thúy Kiều. Với sự kết hợp tại tình giữa bút pháp ước lệ tượng trưng, sử dụng sáng tạo nghệ thuật so sánh, nhân hóa và ngôn ngữ tinh tế tả ít gợi nhiều.  Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung toàn mĩ về “hai ả tố nga” bằng thơ sáng giá nhất cho nền văn học trung đại để biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của mình. Cảm hứng nhân đạo của “Chị em Thúy Kiều” đã góp phần đem đến những giá trị tư tưởng đặc sắc giá trị nhân bản của kiệt tác “Truyện Kiều”. Đọc đoạn trích, đọc tác phẩm chúng ta tự hào Nguyễn Du một trái tim chan chứa yêu thương, đồng cảm với số phận con người một tài năng về thi ca rực rỡ của văn học nước nhà.

🔻 Xem thêm:

 

 

Exit mobile version