Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Tài liệu văn 9] Ôn tập truyện ngắn “Chiếc lược ngà”

CHIẾC LƯỢC NGÀ

Nguyễn Quang Sáng

I/ KHÁI QUÁT TÁC GIẢ – TÁC PHẨM

1/ Tác giả

– Nguyễn Quang Sáng – sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

– Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mỹ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.

– Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại:  truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong 2 cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình.

2/  Tác phẩm:

a/  Hoàn cảnh sáng tác

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên.

b/  Khái quát nội dung và nghệ thuật 

* Nội dung: thể hiện tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt của chiến tranh.

* Nghệ thuật: tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lý; thành công trong việc miêu tả tâm lý và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật trẻ em (bé Thu).

c/  Tóm tắt truyện:

– Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu – con ông – không nhận ra cha vì vết thẹo trên mặt làm ông không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như với người xa lạ. Cho đến lúc em nhận ra cha, tình cha con trỗi dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha ấy đã dồn hết tình cảm yêu thương và nỗi nhớ mong con vào một việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược ngà nhờ người bạn gửi về cho con gái của mình.

d/  Ngôi kể và điểm nhìn trần thuật

– Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, theo điểm nhìn của nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của ông Sáu cũng là người trực tiếp chứng kiến câu chuyện éo le của cha con ông Sáu.

– Tác dụng:

+ Tạo sự chân thực, khách quan cho câu chuyện; mạch kể tự nhiên, chân thực và gần gũi.

+ Người kể dễ dàng bày tỏ thái độ, tình cảm, suy nghĩ của bản thân về câu chuyện ; chủ động điều khiển nhịp kể và dẫn dắt nội dung câu chuyện theo dòng cảm xúc của mình.

e/  Nhan đề “Chiếc lược ngà”

Chiếc lược ngà” là hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng. Chọn hình ảnh “Chiếc lược ngà” làm nhan đề cho tác phẩm, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã bộc lộ tài năng của mình trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm qua một hình ảnh nghệ thuật cô đúc, giàu ý nghĩa:

– Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỷ vật , là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ.

– Với ông Sáu, chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng bởi nó chứa đựng tình yêu, nỗi nhớ thương của ông đối với đứa con gái và làm dịu đi nỗi day dứt, ân hận vì đã đánh con khi nóng giân…

– Với bác Ba, chiếc lược là sự ủy thác thiêng liêng của người đồng đội

è chiếc lược trở thành cầu nối tình cảm giữa các nhân vật.

è Với nhan đề này, nhà văn không chỉ nói tình cảm cha con thắm thiết, sâu nặng mà còn gợi cho người đọc thấm thía những đau thương mất mát do chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

f/  Tình huống truyện :

Truyện ngắn đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống:

Tình huống thứ nhất: hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện.

Tình huống thứ hai: ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông Sáu đã hy sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.

=> Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha với đứa con. Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính, chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. Đó là những tình huống ngẫu nhiên song lại rất phổ biến, những tình huống đầy éo le mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Đặt các nhân vật của mình vào các tình huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca: tình cha con thiêng liêng, sâu nặng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.

 II/ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

1/ Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu

a/ Trước khi nhận ra cha

– Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má, má”.

– Trong 3 ngày ông Sáu ở nhà:  Thu kiên quyết khước từ tình cảm của ông Sáu, xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi. Thậm chí, con bé còn phản ứng rất quyết liệt:

+ Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm ông Sáu đau lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười.

+ Đến bữa sau, má giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm,nó không thể tự chắt nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”. Nhưng quyết không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”.Bác Ba mở đường cho nó, nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Ông Sáu cứ vẫn ngồi im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ.

+ Đỉnh điểm của kịch tính: bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ , ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh,Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.

Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “Sao mày cứng đầu quá vậy?”. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp,nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Thái độ của em không hề đáng trách bởi trong hoàn cảnh xa cách của chiến tranh, em còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt và người lớn cũng chưa kịp chuẩn bị cho em đón nhận những bất thường. Nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba.Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má – người ba với gương mặt không có vết thẹo dài.

b/ Khi nhận ra ông Sáu là cha.

–  Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ba. Lúc này, không chỉ yêu ba, nó còn rất thương ba nữa.

– Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận.

– Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “Thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…ba!”.Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời cách xa, thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

– Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận: nó chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng, nó khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi…Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.

–  Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.

è  Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, người đọc cảm nhận được ở cô bé tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh của Thu là biểu hiện  của một cá tính mạnh mẽ, là biểu hiện của một cô giao liên dũng cảm sau này.

Tác giả rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

2/ Diễn biến tâm lí và tình cảm của ông Sáu

a/ Lúc còn ở rừng:

– Ông nhớ thương con vô cùng.

– Khao khát được gặp con, được sống trong tình yêu của con.

b/ Khi gặp con ở bến xuồng:

– Trở về sau tám năm xa cách, nỗi nhớ con, khao khát được gặp con khiến ông không thể kìm được xúc động. Không chờ xuồng cập bến, ông “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra” rồi “bước vội vàng với những bước dài”, “kêu to tên con, vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con”.

– Nỗi xúc động làm vết thẹo dài trên má phải ông lại đỏ ửng lên, giần giật, giọng nói lập bập, run run: “ba đây con, ba đây con”. Ngược lại, bé Thu giật mình, ngơ ngác, hốt hoảng và vụt bỏ chạy ,  điều đó hoàn toàn bất ngờ với ông Sáu khiến “mặt ông sầm lại” và “hai tay buông xuống như bị gãy”.

Thể hiện tâm trạng đau khổ tột cùng, ông sung sướng, náo nức, nôn nóng muốn được ôm con vào lòng, nhưng đứa con lại xa lánh, hoảng sợ khiến người cha bị hụt hẫng, ông đau đớn không hiểu nguyên nhân vì sao, ông vừa thất vọng, vừa bất lực.

c/ Trong 3 ngày nghỉ phép:

– Ông chẳng đi đâu xa, chỉ tìm cách gần gũi để được nghe một tiếng gọi “ba” của con bé.

– Mọi cố gắng của ông từ việc “giả vờ không nghe” đến việc “dồn nó vào thế bí” (chắt nước cơm) nhưng không có kết quả. Ông khổ tâm đến nỗi không khóc được mà chỉ nhìn con khe khẽ lắc đầu cười.

– Trong bữa ăn, ông gắp cho con bé cái trứng cá to vào bát nhưng ngay lập tức con bé hất văng cái trứng cá ra mâm,  do nôn nóng, bực tức, không kịp suy nghĩ, ông đã đánh con bé  khiến con bé bỏ sang nhà ngoại.

è  Tình yêu thương con của ông Sáu đã không được bé Thu đón nhận, đáp lại, nó kiên quyết không chịu cất lên cái tiếng gọi mà ba nó mong mỏi – điều đó làm ông Sáu thực sự đau lòng, ông chỉ biết lắc đầu cam chịu, bởi tình cảm không dễ gì gượng ép.

d/ Buổi sáng chia tay mọi người

– Anh cũng muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giẫy lên, bỏ chạy nên anh chỉ đứng nhìn nó, anh nhìn bằng đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Vì yêu con mà ông cố gắng kìm nén cảm xúc của mình, sợ con hoảng sợ.

– Khi nghe tiếng gọi ba từ con bé, đón nhận tình cảm nồng nhiệt của con, ông Sáu vô cùng xúc động. Một người lính đã từng vào sinh ra tử nơi chiến trường đã phải rơi những giọt nước mắt, đó là giọt nước mắt hạnh phúc đến vô tận.

e/ Những ngày ông Sáu ở chiến khu.

– Ông thương con, ân hận vì mình đã đánh con.

– Ông dồn tình thương yêu ấy vào việc làm cho con một chiếc lược ngà – lời hứa với con trước lúc chia tay.

+ Ông vui sướng như đứa trẻ được quà khi nhặt được khúc ngà voi.

+ Ông cẩn thận cưa từng chiếc răng lược, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.

+ Ông còn gò lưng tỉ mẩn khắc lên đó dòng chữ: “Yêu nhớ – tặng thu con của ba”.

+ Cây lược hoàn thành, mỗi lúc rảnh rỗi, ông lại mang cây lược ra ngắm nghía và chải lên tóc cho cây lược thêm bóng mượt để khi con chải tóc không bị đau.

Chiếc lược ngà gỡ rối được phần nào tâm trọng của người cha, chiếc lược ấy là tình cảm, tấm lòng, là yêu thương mà ông gửi gắm – thỉnh thoảng những lúc rảnh rỗi ông lại lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho thêm bóng, thêm mượt.

– Trong một trận càn lớn của địch, ông Sáu bị thương nặng. Trước lúc hy sinh, không thể trăng trối được điều gì, ông Sáu dồn hết sức lực đưa tay vào túi áo, móc cây lược ra trao vào tay người bạn chiến đấu. Chỉ khi nhận được lời hứa “mang về trao tận tay cho cháu”, ông mới nhắm mắt đi xuôi.

Qua câu chuyện về tình cha con của ông Sáu, người đọc không chỉ xúc động mà còn thấm thía bao đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh đã gây ra cho biết bao con người, biết bao gia đình.

Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định : Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người  còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.

3/ Nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện:

–  Truyện ngắn Chiếc lược ngà là biểu tượng cho đặc điểm trần thuật truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Điều tạo nên sức hấp dẫn của câu truyện là tác giả đã xây dựng được một tình huống hết sức chặt chẽ, hấp dẫn xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng tự nhiên và hợp lý. Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Quang Sáng thoải mái, tự nhiên với giọng điệu thân mật, dân dã.

–  Tác giả đã lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Đồng thời tác giả thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của nhân vật trẻ em rất tinh tế. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm, tấm lòng yêu thương trân trọng của nhà văn đối với con người và tình người.

–  Ngôi kể: Tác giả đã kể chuyện từ nhân vật “tôi” (bác Ba) – người bạn thân chiến đấu của ông Sáu, một người chứng kiến toàn bộ câu chuyện. Việc sử dụng ngôi kể này tạo được giọng điệu kể chuyện thủ thỉ tâm tình, gợi cảm giác chân thực, gần gũi với người đọc. Khi cần có thể bày tỏ trực tiếp cảm xúc, thái độ đối với sự kiện và nhân vật. Câu chuyện trở nên đáng tin cậy. Người kể hoàn toàn điều khiển nhịp kể.

III/ TỔNG KẾT

1/ Nội dung:

-Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

-Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

2/ Nghệ thuật:

– Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí

– Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất,đặt vào nhân vật bác Ba,người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ,bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan.

– Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu.

– Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.

IV/ LUYỆN TẬP

Bài 1.

Dưới đây là trích đoạn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng):

Trong bữa cơm đó, anh Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó. Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên:

– Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”

(Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2013)

Chiếc lược ngà được viết năm nào? Ghi lại từ mang màu sắc Nam bộ trong đoạn trích.

Những biểu hiện của nhân vật bé Thu ở trên nói lên thái độ gì và qua đó bộc lộ tình cảm như thế nào đối với nhân vật ông Sáu? Lời kể được in đậm trong đoạn trích trên giúp em nhận biết mục đích nói ở câu văn có hình thức nghi vấn sau đó là gì?

Viết một đoạn văn ( khoảng 15 câu) theo cách lập luận quy nạp làm rõ tình cảm sâu nặng của bé Thu đối với cha trong truyện ngắn trên, ở đó sử dụng câu có thành phần biệt lập và phép lặp để liên kết ( gạch dưới phần biệt lập và từ ngữ dùng làm phép lặp).

Kể tên một Từ cảnh ngộ của người cha trong hai tác phẩm, em có suy ngẫm gì (không quá 5 dòng) về chiến tranh.

Bài 2. Cảm nhận của em về đoạn văn sau:

 “ Chúng tôi, mọi người – kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:

– Ba… a… a… ba!

Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Ðó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm, tiếng “Ba” như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.

Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:

– Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!

Ba nó bế nó lên – nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa..

( Trích Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng)

Dàn bài:

I/  Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích.

Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Là một người con của mảnh đất Tây Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người quê hương trong chiến tranh và sau hòa bình.  “Chiếc lược ngà” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng, tác phẩm được viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất ác liệt. Tác phẩm là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Đặc biệt, tình cảm cao đẹp và thiêng liêng ấy được thể hiện rất chân thật và cảm động qua đoạn văn kể về cảnh chia tay của cha con ông Sáu trước lúc ông Sáu lên đường trở về khu căn cứ : “Chúng tôi, mọi người – kể cả anh….. hôn cả vết thẹo dài của ba nó nữa”

II/ Thân bài

1/ Cảnh ngộ của cha con ông Sáu    

– Bé Thu – đứa con gái duy nhất của ông Sáu được sinh ra và lớn lên khi ông biền biệt xa nhà đi chiến đấu. Sau tám năm, ông được trở về thăm nhà với biết bao mong chờ, hạnh phúc vì được gặp con. Nhưng trớ trêu thay, trong cả ba ngày phép ngắn ngủi , con bé kiên quyết không nhận ông là cha bởi vết thẹo trên mặt khiến ông khác hẳn người đàn ông trong bức hình chụp chung với má nó. Chỉ đến khi được ngoại tháo gỡ, khi ông phải từ biệt mọi người để trở  lại chiến trường nó mới chịu gọi ông là “ba”. Cha con ông nhận nhau, từ biệt nhau trong nước mắt. Ông đã hứa sẽ làm tặng Thu một chiếc lược ngà.

2/ Cảm nhận về đoạn trích

– Lúc bé Thu nhận ra cha cũng chính là lúc ông Sáu phải lên đường, trở về khu căn cứ. Thời điểm đó thật éo le, tạo sự dồn nén cảm xúc của các nhân vật.

–  Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ba. Lúc này, không chỉ yêu ba, nó còn rất thương ba nữa.

– Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “Thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…ba!”.Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời cách xa, thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

– Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận: nó chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng, nó khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi…Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.

–  Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.

Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, người đọc cảm nhận được ở cô bé tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh của Thu là biểu hiện  của một cá tính mạnh mẽ, là biểu hiện của một cô giao liên dũng cảm sau này.

Tác giả rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

3/ Đánh giá về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

–         Miêu tả tâm trạng nhân vật qua cử chỉ, hành động, lời nói thể hiện sự quan sát tỉ mỉ và am hiểu tâm lí trẻ thơ của nhà văn.

–  Nghệ thuật liệt kê được sử dụng hiệu quả ( Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó…Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa…) để nhấn mạnh những cử chỉ vồn vã, hối hả, cuống quýt qua đó thể hiện tình cảm chân thành, mãnh liệt của bé Thu dành cho ba.

III/ Kết bài: Khẳng định vấn đề

– Đoạn trích đã tạo nên bước ngoặt cho câu chuyện: hóa giải được những thắc mắc, hoài nghi của bé Thu, khiến cha con thực sự được đoàn tụ và ông Sáu được thỏa lòng mong nhớ con; đồng thời thể hiện rõ nét tính cách của bé Thu: cá tính và yêu cha hết mực.

– Đoạn trích nói riêng và truyện ngắn nói chung đã thể hiện tình cảm cha con, tình cảm gia đình trong chiến tranh một cách cảm động; gợi lên trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm về tình phụ tử bất diệt, thiêng liêng.

🔻 Xem thêm:

 

Exit mobile version