Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Tài liệu văn 8] “Nhớ rừng” đã nói lên tâm sự của người dân mất nước thuở ấy.

Đề bài: Nhớ rừng của Thế Lữ: Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát khao tự do mãnh liệt bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy”.

( Ngữ văn 8- tập 2).

Hãy phân tích bài thơ Nhớ rừng để làm sáng tỏ ý kiến trên.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

Dàn bài:

1, Mở bài: Giới thiệu tác giả, văn bản. Trích dẫn nhận định.

2, Thân bài:

a/ Luận điểm 1: Bài thơ nói lên cảnh sống tù túng của con hổ ở vườn bách thú

– Vốn là chúa tể của muôn loài, đang tung hoành chốn núi non hùng vĩ nay bị nhốt trong cũi sắt, hổ thấy tù túng và ngột ngạt.

– Hổ trở thành trò lạ mắt, thứ đồ chơi cho lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ hết ngày này sang ngày khác.

– Hổ phải chịu ngang bầy cùng bọn gấu ngẩn ngơ và với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

– Hổ nhớ đến những ngày mình sống tự do, nơi núi cao, rừng thẳm…

– Cảnh vườn bách thú hiện ra trước mắt hổ thật đáng chán, đáng khinh, đáng ghét. Tất cả chỉ là đơn điệu, nhàm tẻ không đời nào thay đổi. Đều chỉ là nhân tạo, do bàn tay sửa sang, tỉa tót của con người nên tầm thường giả dối chứ không phải là thế giới của tự nhiên to lớn, mạnh mẽ, bí hiểm.

b/ Luận điểm 2: Bài thơ đã diễn tả được cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ qua (đoạn 2 và 3)

– Đó là cảnh đại ngàn cái gì cũng lớn lao, cũng phi thường.

– Đó là chốn ngàn năm cao cả âm u, là cảnh nước non hùng vĩ, là oai linh ghê gớm…

– Trên cái phông nền rừng núi hùng vĩ đó, hình ảnh con hổ hiện ra nổi bật với vẻ đẹp oai phong lẫm liệt. Khi rừng thiêng tấu lên khúc trường ca dữ dội thì con hổ cũng bước chân lên với một tư thế dõng dạc đường hoàng.

– Đó là cảnh “ bình minh cây xanh nắng gội” chan hòa ánh sáng rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.

c/ Luận điểm 3: Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy.

– Cảnh vườn bách thú “ tầm thường giả dối” và tù túng dưới mắt con hổ đó chính là thực tại xã hội đương thời được cảm nhận bởi những tâm hồn lãng mạn.

– Tác giả đã đặt thế giới thực tại chật chội, tù túng và u ám bên cạnh thế giới oai hùng trước đây của chúa sơn lâm nhằm thể hiện nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khát khao tự do mãnh liệt của nhân vật trữ tình.

d/ Luận điểm 4: Đánh giá về nghệ thuật của bài thơ.

– Bài thơ đầy nhạc tính, âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt. Giọng thơ thì u uất, bực dọc, dằn vặt, khi thì say sưa, tha thiết, hùng tráng, song tất cả vẫn nhất quán liền mạch và đều tràn đầy cảm xúc.

– Cả bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn; mạch cảm xúc sôi nổi, cuồn cuộn cứ tuôn trào dưới ngòi bút của nhà thơ.

3, Kết bài: Khẳng định lại vấn đề

Bài viết tham khảo

Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới( 1932-1945) thời kì đầu. Với hồn thơ dồi dào đầy lãng mạn, Thế Lữ đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca. “ Nhớ rừng là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của ông.  Qua bài thơ “ Nhớ rừng của Thế Lữ: Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát khao tự do mãnh liệt bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy”.

Trước hết, bài thơ đã nói lên cảnh sống tù túng của con hổ ở vườn bách thú.Vốn là chúa tể của muôn loài, đang tung hoành chốn núi non hùng vĩ nay bị nhốt trong cũi sắt, hổ thấy tù túng và ngột ngạt. Hổ trở thành trò lạ mắt, thứ đồ chơi cho lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ hết ngày này sang ngày khác. Hổ phải chịu ngang bầy cùng bọn gấu ngẩn ngơ và với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Hổ nhớ đến những ngày mình sống tự do, nơi núi cao, rừng thẳm…Cảnh vườn bách thú hiện ra trước mắt hổ thật đáng chán, đáng khinh, đáng ghét. Tất cả chỉ là đơn điệu, nhàm tẻ không đời nào thay đổi. Đều chỉ là nhân tạo, do bàn tay sửa sang, tỉa tót của con người nên tầm thường giả dối chứ không phải là thế giới của tự nhiên to lớn, mạnh mẽ, bí hiểm:

 Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém;

Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,

Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả, âm u

Hổ vô cùng u uất, ngao ngán. Nhưng không có cách gì ra khỏi cái môi trường tù túng, chật hẹp và chán ngắt ấy, con hỏ đành buông xuôi bất lực: Nằm dài trông ngày tháng dần qua.

Bài thơ đã diễn tả được cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ.  Đó là cảnh đại ngàn cái gì cũng lớn lao, cũng phi thường.

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

Đó là chốn ngàn năm cao cả âm u, là cảnh nước non hùng vĩ, là oai linh ghê gớm. Trên cái phông nền rừng núi hùng vĩ đó, hình ảnh con hổ hiện ra nổi bật với vẻ đẹp oai phong lẫm liệt. Khi rừng thiêng tấu lên khúc trường ca dữ dội thì con hổ cũng bước chân lên với một tư thế dõng dạc đường hoàng:

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Đó là cảnh “ bình minh cây xanh nắng gội” chan hòa ánh sáng rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.

Ở cảnh nào, núi rừng cũng mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa thơ mộng và con hổ cũng nổi bật lên với tư thế lẫm liệt, kiêu hùng, đúng là một chúa sơn lâm đầy uy lực. Nhưng tất cả đã là quá khứ. Vì vậy, đoạn thơ khép lại bằng tiếng than u uất: Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy. Cảnh vườn bách thú “ tầm thường giả dối” và tù túng dưới mắt con hổ đó chính là thực tại xã hội đương thời được cảm nhận bởi những tâm hồn lãng mạn. Thái độ ngao ngán, chán ghét đối với cảnh vườn bách thú của con hổ cũng chính là thái độ của họ đối với xã hội.Tác giả đã đặt thế giới thực tại chật chội, tù túng và u ám bên cạnh thế giới oai hùng trước đây của chúa sơn lâm nhằm thể hiện nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khát khao tự do mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng của nhà thơ lãng mạn, đồng thời cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước khi đó.

Bài thơ vừa ra đời đã được công chúng say sưa đón nhận. Họ cảm thấy lời con hổ trong bài thơ chính là tiếng lòng sâu kín của họ.

Bài thơ đầy nhạc tính, âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt. Giọng thơ thì u uất, bực dọc, dằn vặt, khi thì say sưa, tha thiết, hùng tráng, song tất cả vẫn nhất quán liền mạch và đều tràn đầy cảm xúc. Cả bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn; mạch cảm xúc sôi nổi, cuồn cuộn cứ tuôn trào dưới ngòi bút của nhà thơ.

Tóm lại, vơi hình tượng con hổ bị nhốt trong vườn bách thú, tác giả đã có một biểu tượng rất thích hợp và đẹp đẽ thể hiện chủ đề bài thơ. Cảnh rừng đại ngàn hoang vu, giang sơn của chúa sơn lâm, là biểu tượng của thế giới khoáng đạt, thế giới của tự do. Vườn bách thú với cũi sắt và rừng suối nhân tạo là biểu tượng cho thực tại tù túng, giả dối, tầm thường. Qua những hình ảnh mang tính biểu tượng đó, nhà thơ đã nói lên được tâm sự của riêng mình và của những người dân mất nước thời đó.

Exit mobile version