I/ Mở bài
Tác phẩm “Vợ nhặt “xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
II/ Thân bài
1.Lai lịch, ngoại hình:
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là: “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Cho nên, ngay cả khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt nhạnh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao con người như thế.
Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác : Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và biết đâu sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị.
=>Một nhân vật không có cả cái tên, hay chính số phận chông chênh của con người. Số phận ấy có khác nào người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, rẻ rúng, có thể bị gạch tên, xóa sổ khỏi cuộc đời bất cứ lúc nào. Ngay từ vấn đề tưởng như vô tình, nhỏ nhặt của tác phẩm mà cũng toát lên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu xa – lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến coi rẻ mạng sống con người. Qua đó, ta thấy lòng yêu thương, trân trọng con người của tác giả.
2.Tính cách:
a, Khi mới gặp Tràng:
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng và người đọc với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò :
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Thị bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: “Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?” Khi nhận được câu trả lời như khẳn định sự chân thật của lời hò thì Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm. Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Nhưng nếu người đọc để tâm một chút sẽ phát hiện ra sự linh diệu của lời hò mà Tràng buông ra với Thị cũng như những người khác. Giữa lúc đói kém mà nghe một anh chàng to khỏe đang đẩy xe thóc cất lên tiếng hò kia thì ai nghĩ đó là một câu đùa. Khi cháo cám còn không có mà ăn thì cơm trắng với giò là niềm mơ ước của bao người. Liệu đó có là một tia hi vọng về cuộc sống no đủ, sung túc, là nơi tránh được cái đói, trốn được cái chết? Để rồi khi theo Tràng về nhìn thấy gia cảnh của Tràng thị đã nén một tiếng thở dài. Với Tràng và tất cả mọi người lời đùa đó qua đi nhanh chóng trong quên lãng vì ai cũng lo cuộc sống mưu sinh. Nhưng đó lại là lời nói với một tia hi vọng trong thị và vì thế không dễ dàng gì để bỏ quên nó.
Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa trách: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt nạt, thị tiếp tục cong cớn. Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Một người phụ nữ không có chút ý tứ, dịu hiền nào. Thậm chí cả Tràng và người đọc còn ngỡ ngàng không hiểu chuyện gì xảy ra. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá. Khác đầu tiên mà Tràng nhận ra đó là ngoại hình. Hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Người đọc nhận ra ngay hậu quả, sự tàn phá của cái đói đã làm cho ngoại hình của thị thay đổi trông khác hẳn. Điều này làm ta nhớ đến Chí Phèo của Nam Cao. Ngoại hình của một anh canh điền hiền lành, khỏe mạnh ngày nào đã bị xã hội thực dân phong kiến biến thành mặt của một con vật với những vết sẹo vằn ngang vằn dọc trên mặt, mặt của con vật để nhìn vào đó người ta không cả nhận ra tuổi của Chí Phèo. Đó là lời tố cáo xã hội đương thời đã tàn phá, hủy hoại con người. Nhưng điều đó cũng chưa đáng lên án bằng sự tàn phá nhân phẩm của cái đói. Khi thị tiếp tục bộc lộ ra những nết tính các không dễ gì chấp nhận đối với một người con gái. Đó là khi nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Cu Tràng khá tế nhị và ý tứ khi mời thị ăn giầu bởi phong tục dân gian của ta thì miếng trầu là đầu câu chuyện. Huống chi Tràng là trai chưa vợ, thị là gái chưa chồng thì ăn giầu còn thể hiện sự ý nhị, kín đáo và tình tứ của nam nữ. Vậy mà ai ngờ thị có một phản ứng thật dữ dội đầy bất ngờ. Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Một cô gái từ chối miếng giầu và gợi ý chuyện ăn uống, không úp mở. Còn đâu cái e lệ, thẹn thùng, đúng mực của một người con gái? Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì. Không chỉ gợi ý ăn mà thị còn thể hiện niềm vui không giấu giếm khi được mời ăn. Những câu đối thoại ngắn xuất hiện như sự vội vàng sợ Tràng thay đổi ý định. Không chỉ vội vàng trong lời nói mà còn vội vàng trong cả miếng ăn.
Chị ta đang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần: Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách. Các cụ ta vẫn có câu nói răn dạy con cái: “nam thực như hổ, nữ thực như miu”. Thị ăn không một chút ý tứ, ăn ngấu nghiến, ăn cho no, ăn cho đẩy lùi cơn đói, đẩy lùi cái chết để rồi chút nữ tính mất theo miếng ăn. Cái cách Kim Lân miêu tả thị ăn sao mà chua chát giống Nam Cao miêu tả người bà trong một bữa no. Vì đói, vì khát mà người bà ấy mặc bỏ ngoài tai sự khinh miệt đối xử, bỏ những lời miệt thị mà ngấu nghiến ăn. Để rồi vì Một bữa no mà chết, mà tiếng để đời. Phải chăng khi người ta đói, người ta cận kề cái chết thì người ta chỉ cần ăn, cần sống. Đó là phần bản năng của con người mà chỉ khi đứng trước ranh giới cái chết nó mới bộc lộ đầy đủ và sống động đến chua chát.
Nếu khi cái đói đến nó tàn phá nhân hình, xua đuổi nhân phẩm thì khi đã no, chút tự trọng tìm về, thị nửa thật, nửa đùa cho đỡ xấu hổ: Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Như sự quan tâm, hay một chút ân hận đầy tự trọng của thị lúc này. Tràng cười nhạt: Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tràng cũng chú giải rất rõ là nói đùa, tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật. Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng. Đến đây sự chua chát, bẽ bàng mới hiện ra đầy đủ nhất. Tràng đùa ăn khi hò chơi thì đã thành ăn thật. Điều đó dù sao cũng còn dễ chấp nhận. Nhưng đùa theo về làm vợ thì mấy ai tưởng thật. Có lẽ chính vì lẽ đó nên Tràng mới đùa tiếp. Ai ngờ thị theo về thật. Làm vợ người ta phải treo, phải cưới hỏi đàng hoàng chứ. Có họ hàng đôi bên. Vậy mà không, thị không cần gì cả. Theo Tràng về luôn. Kim Lân không hề miêu tả sự băn khoăn, do dự của thị khi cân nhắc có quyết định làm vợ Tràng hay không. Mà chỉ có người băn khoăn, lo lắng là Tràng. Phải chăng thị quá may mắn khi được Tràng rủ về làm vợ. May mà thị có cái phao để bấu víu vào mong tìm thấy sự sống. Và thị nghiễm nhiên trở thành cô vợ nhặt. Cái đói đã khiến thân phận của con người trở nên bèo bọt, rẻ rúm. Như cái rơm cái rác ngoài đường để rồi vơ quàng, vơ xiên về làm vợ. Chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam thân phận của người phụ nữ lại rẻ mạt đến vậy. Trong xã hội phong kiến người phụ nữ tuy không có quyền quyết định hạnh phúc và hôn nhân của mình nhưng thân phận của họ vẫn còn có giá trị như một: tấm lụa đào, miếng cau khô… Muốn lấy họ về làm vợ thì cũng phải bỏ tiền ra mua. Ấy vậy mà giờ đây ta lại thấy trong xã hội hiện đại, thân phận một người phụ nữ mà như cái rơm cái rác đã bị vứt đi. Không còn giá trị. Thật chua xót cho một kiếp làm người.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì với nhau đâu?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã! Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào! Phải chăng đấy là tính cách vốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được ăn! Và tính cách của người phụ nữ ấy hiện lên đúng với bản chất của mình, trở về là chính mình khi cô ấy quyết định theo Tràng về làm vợ, có một người chồng.
b, Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
* Trên đường theo Tràng về.
Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng, xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng không sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến đầy rẫy những định kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh Tràng mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi chết đói và những người trong gia đình anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị hay không? Chuyện làm “vợ” đến với chị quá bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên cạnh dáng điệu phớn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta lại càng nổi bật: Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì đang diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép, e thẹn của một cô dâu mới bước những bước chân đầu tiên về nhà chồng. Chắc là với thị, con đường từ chợ về nhà Tràng là con đường dài nhất thị phải đi trong đời, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng? Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có mang lại cho chị được chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh của chị bây giờ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu hỏi: Sắp đến chưa? Vẫn chưa đến à? Rồi lại: Nhà có ai không?. Không chỉ có hai câu hỏi đó mà chắc chắn trong lòng chị đang ngổn ngang bao câu hỏi với trăm mối tơ vò, những câu hỏi như xoáy sâu vào một số phận, một kiếp người đói nghèo, bèo bọt.
Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân, bởi vì lúc này nó đã trở về một cách đầy đủ nhất. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Thị đã vốn ngượng nghịu thì giờ lại càng ngượng nghịu hơn. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, tất cả các con mắt đang đổ dồn về phía thị, thị càng ngượng nghiụ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ thấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người. Vậy là chút ngượng nghịu đã xen lẫn sự tủi hổ, bẽ bàng của thân phận vợ theo không, vợ nhặt. Tất cả vẫn còn là một ẩn số mà thị đang rất nóng lòng muốn biết lời giải đáp. Câu trả lời đó đang đợi thị ở cánh cổng mở nơi ngôi nhà Tràng.
* Khi về đến nhà Tràng.
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán ngán, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần… Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị không? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân? Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Chị không nói được nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành nước mắt mà chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi. Cũng là lúc chị băn khoăn và ngổn ngang nhất trong lòng thì Kim Lân đã xua đuổi những ý nghĩ ấy trong đầu thị, không để thị phải bật khóc bằng sự xuất hiện của bà cụ Tứ. Bà không chỉ là cứu cánh cho Tràng khi đang nóng lòng mong mẹ về để báo cáo việc có vợ, để nhận được sự đồng ý, mà còn là bàn tay vô hình giữ thị lại cái nhà này khi thị hoang mang nhất trước sự lựa chọn như định mệnh của cuộc đời mình.
Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập. Nhưng dường như mọi sự đã rồi bởi khi bà cụ Tứ về cũng là lúc thị biết mình không thể bước chân ra đi được nữa, theo phản xạ tự nhiên khi nghe Tràng chào u thị cũng cất tiếng chào bà cụ Tứ bằng “u”. Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép không động đậy, không di chuyển vị trí. Chính thái độ thân mật đầy cảm thông cho hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không phải như vậy.
Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu. Ông không muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Khi viết truyện ngắn vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no đủ nhưng dẫu sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Chị hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao?
*Trong buổi sáng hôm sau.
Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn trong buổi sáng hôm sau. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên với đầy đủ tình yêu, sự cảm thông và hạnh phúc gia đình thì vẻ đẹp ấy đã trở về với thị. Thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Phải chăng có chồng đã làm thị tu chí làm ăn? Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Người đàn bà vô danh nhưng không vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng. Là luồng gió mát mang đầy sinh khí cho căn nhà nhỏ bé, tồi tàn, lạnh lẽo, u ám của mẹ con Tràng.
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối sầm lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chì là cô vợ nhặt. Những vẻ đẹp tiềm ẩn, khuất lấp trong người vợ nhặt đã được Kim Lân miêu tả thật tinh tế với thái độ đầy trân trọng, ngợi ca.
Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời; còn người nói đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt – người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của câu chuyện đáng buồn này.
Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không sai, nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh người vợ nhặt của anh Tràng. Một người đàn bà không tên tuổi, tưởng như vô học lại là người hiểu rộng, biết nhiều không chỉ cách ăn ở, đối nhân xử thế mà còn hiểu được thời cuộc. Biết giác ngộ, thức thời hơn cả anh Tràng nam nhi kia. Chính thị là người đưa Tràng đến với là cờ cách mạng, đến con đường đi tìm ánh sáng của sự sống cuối đường hầm và tự do trong kiếp nô lệ. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ nhặt – người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc.
c/ Số phận:
Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng. Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại. Điều sâu xa hơn Kim Lân muốn nói là niềm khao khát sống và bản chất tốt đẹp không bao giờ bị hủy hoại nơi người phụ nữ nghèo khổ ấy.
d/ Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ. Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ, bởi người phụ nữ bao giờ cũng thể hiện tâm lí của mình đầy tinh tế, khéo léo và ý nhị. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng… Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
III/ Kết bài
Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy. Chính điều đó đã làm nên sức sống mãnh liệt cho nhân vật tưởng chừng như mờ nhạt nhất trong tác phẩm. Thị còn mãi là nỗi ám ảnh đối với độc giả khi quay lại lật giở lịch sử những năm tháng đau thương nhất của dân tộc – nỗi ám ảnh về thân phận con người, đầy tính nhân văn của Kim Lân.