Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Tài liệu văn 11] Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo

Đề bài : Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.

I/ MỞ BÀI

Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại.  Trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, ông luôn có những trăn trở, nghĩ suy về sống và viết. Ông từng viết: “Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có“. Có lẽ chính bởi những quan niệm nghệ thuật chân chính ấy mà Nam Cao đã cho ra đời hàng loạt những tiểu thuyết, truyện ngắn có giá trị. “Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Đó là một tác phẩm có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Bởi vì “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành công, nổi bật hình tượng một nhân vật điển hình là nhân vật Chí Phèo.

II/ THÂN BÀI

1/ Khái quát

Trước cách mạng, Nam Cao viết về hai đề tài là đề tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài người nông dân, khi Nam Cao xuất hiện trên văn đàn thì các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… đã rất nổi tiếng. Đó là một thách thức lớn với Nam Cao nhưng ông đã lặng lẽ vượt qua để “Chí Phèo” ra đời, trở thành tác phẩm hay nhất, tiêu biểu nhất về thân phận người nông dân trước cách mạng. Nếu như người nông dân trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… chỉ bị đẩy vào con đường bần cùng hóa bởi nạn tô tức, cường hào thì nhân vật của Nam Cao vừa bị rơi vào bi kịch bần cùng vừa bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi và bị xói mòn về nhân phẩm. Như vậy, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc về nỗi khổ của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến, quan tâm đến một bi kịch còn đau đớn hơn bi kịch tô tức, cường hào là tấn bi kịch tinh thần.

2/ Lai lịch và bản chất lương thiện

Lai lịch, nguồn gốc xuất thân của Chí Phèo không được kể ngay từ đầu tác phẩm mà xen vào giữa, mỗi chỗ lại lướt qua một vài chi tiết nhưng cũng đủ để người đọc hiểu rõ về lai lịch của Chí. Chí Phèo vốn là đứa không cha không mẹ. Cả làng Vũ Đại không ai biết cha mẹ Chí Phèo là ai. Họ chỉ biết rằng vào một buổi sáng tinh sương, một anh đi thả ống lươn nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lươn “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó bà góa mù đem hắn bán cho bác phó cối. Khi bác phó cối mất, Chí bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến. Như vậy, ngay từ khi chào đời, Chí đã bị tước đi quyền được sống bình thường như bao nhiêu người khác và dù có lúc hắn thành vật trao tay, thành món hàng cho người ta mua bán thì hắn vẫn được sống trong vòng tay của những người lương thiện. Bởi vậy, lúc 20 tuổi Chí Phèo vẫn là một chàng trai lực điền, hiền lành, khỏe mạnh và lương thiện. Chí cũng có ước mơ giản dị của một người lương thiện là “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Bản chất lương thiện, căm ghét cái xấu cái ác của hắn còn được thể hiện khi bị bà Ba, vợ Bá Kiến gọi vào bóp chân, xoa bụng. Hai mươi tuổi, Chí không phải là gỗ đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thực,  hắn biết nhục khi phải làm những việc mà người ta khinh. Bản chất hiền lành, nhút nhát của Chí còn được thể hiện rõ ở chi tiết chính Lý Kiến cũng có lần nhìn thấy bị bà Ba sai bảo, hắn vừa làm vừa run. Một người như Chí nếu được sống trong một xã hội bình thường thì hắn cũng sẽ có một cuộc đời yên ổn. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết ước mơ tưởng chừng rất giản dị của Chí và đẩy hắn vào con đường tha hóa.

3/ Chí Phèo tha hóa

Chỉ vì cái ghen vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí vào cảnh tù tội. Và nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một thằng lưu manh, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Sau bảy, tám năm ở tù Chí trở về làng nhưng người ta không còn nhận được ra hắn. Hắn trở thành một người  khác hẳn, trông đặc như thàng sắng đá với “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ hình rồng, phượng và một ông tướng cầm chùy… Nhà văn đã phải dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi trước vẻ ngoài lưu manh, côn đồ của hắn.

Hắn về hôm trước thì hôm sau đã ra chợ ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa tới xế chiều cho đến lúc say khướt. Rượu say, hắn đến nhà Bá Kiến để chửi và điều đó cho thấy ngay từ lúc ở tù về, hắn đã nhận diện được Bá Kiến là kẻ thù của mình. Hắn gọi cả tên tục ra để chửi. Hắn chửi thật là ầm ĩ, thật là ngoa ngoắt và điếc tai, chửi đến mức “Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, “Phen này cha con thằng Bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa”. Lí Cường hữu dũng vô mưu về chỉ làm tình hình thêm căng thẳng, Chí Phèo lăn ra rạch mặt ăn vạ khiến Lí Cường tái mặt. Giữa lúc đó thì Bá Kiến về rồi chỉ bằng vài câu ngọt nhạt, Bá Kiến đã dần biến Chí Phèo từ chỗ hung hăng, coi Bá Kiến như kẻ thù dần trở thành tên đầy tớ tay sai, thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Cũng kể từ đây, Chí đã bán mình cho quỷ dữ. Hắn sống trong cơn say triền miên, cơn say này chưa qua thì cơn say khác đã tràn đến thành cơn say dài mênh mông. Trong lúc say, hắn làm tất cả những gì người ta sai bảo.

– Từ một người nông dân lương thiện, Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, trở thành nỗi ám ảnh của bao người. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?” hắn không biết. Hắn đánh mất cả nhân hình lẫn nhân tính để từ hình hài đến tâm tính không còn là một con người:

+ Mất nhân hình: Sau những lần rạch mặt ăn vạ, bộ mặt Chí Phèo giờ đây có bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, ‘‘Cái mặt vàng vàng ngả sang màu xám gio”. Nó dường như không còn là mặt người mà giống như “cái mặt của con vật lạ”.

+ Mất nhân tính: Tội lỗi của hắn chồng chất bởi trong lúc say, hắn làm tất cả những  việc mà Bá Kiến sai bảo “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Trong cơn say, hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện.

– Khi đã trở thành con quỷ dữ, Chí Phèo đã bị cả xã hội từ chối, ruồng bỏ. Đến cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Trước đây, người ta thường đi qua vườn chuối để ra sông lấy nước nhưng từ khi hắn đến ở, người ta tìm đường khác dù có xa hơn. Không ai giao tiếp với hắn và hắn phải sống kiếp sống cô độc của con quỷ dữ. Sự cô độc của hắn thể hiện rõ nhất qua chi tiết tiếng chửi và ngay từ đầu tác phẩm hắn đã xuất hiện với tiếng chửi. Thường thì cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi rất bài bản, lớp lang, đối tượng chửi của hắn rộng vô biên nhưng càng lúc càng thu hẹp. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn và cuối cùng tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn… Dẫu hắn có chửi đến thế nào thì cũng không ai ra nhời. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Thành thử, chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Dù không có ai đáp lại nhưng hắn vẫn chửi bởi vì chửi là một cách hắn phản ứng lại với xã hội đương thời là cái xã hội xấu xa thối nát đã đẩy hắn vào kiếp sống của con quỷ dữ. Quan trọng hơn, chửi là phương thức duy nhất để hắn giao tiếp với đồng loại. Như vậy, chỉ bằng một chi tiết rất nhỏ, rất đơn giản nhà văn Nam Cao đã nói được rất nhiều điều về nỗi thống khổ, sự cô đơn đến cùng cực của Chí Phèo khi hắn bị xã hội cự tuyệt không nhìn nhận là người. Bi kịch của Chí Phèo còn trở nên đau đớn hơn bởi hắn bị chính Bá Kiến, kẻ đã đẩy hắn vào kiếp sống quỷ dữ lợi dụng.

Qua bi kịch tha hóa của Chí Phèo cùng với một số nhân vật xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở xã hội nông thôn đương thời. Xã hội xấu xa, thối nát đó đẩy biết bao nhiêu người dân lương thiện, vô tội vào con đường tha hóa. Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Ở cuối tác phẩm có đoạn “đột nhiên thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”. Chi tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi, Thị Nở lại bụng mang dạ chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh và sẽ lại có một Chí Phèo con ra đời. Nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy rằng, chừng nào xã hội thực dân phong kiến xấu xa, thối nát ấy còn tồn tại thì vẫn còn những nỗi đau, những bi kịch như nỗi đau, bi kịch của Chí Phèo. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật.

Quả thật không sai khi nói rằng văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời. Sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra từ hiện thực đời sống và nếu sáng tác văn học chỉ hoàn toàn là sự hư cấu và tưởng tượng thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Ý thức được sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật, Nam Cao đã thâm nhập rất sâu, đã đau nỗi đau của người dân cùng và đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo để có thể phản ánh đầy đủ nhất bi kịch của người nông dân trong xã hội cũ, biến Chí Phèo thành một hình tượng nhân vật điển hình xuất sắc nhất của văn học Hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945.

4/ Chí Phèo thức tỉnh

Người ta tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. Nhưng không, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên.. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên chỉ mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Nhưng những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt được khơi dậy. Chút tình yêu thương mộc mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỉ dữ để sống lại làm người.

. Nam Cao không phải là nhà văn lãng mạn, ông là một nhà văn hiện thực nghiêm nhặt nên đã lí giải một cách đầy thuyết phục về sự trở về với bản chất lương thiện của Chí. Ông nhìn thấy bản chất lương thiện của Chí Phèo có một lúc nào đó bị mất đi do sự chi phối của số phận nhưng có điều kiện thuận lợi bản chất ấy sẽ trở về đúng như H.Balzac đã phát biểu: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.”. Nhà văn đã sáng tạo ra nhân vật thị Nở và cuộc gặp gỡ với thị Nở đã giúp Chí Phèo trở về với bản chất thật của mình.

4.1. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở

Chí Phèo gặp thị Nở vào một đêm trăng. Sau khi uống rượu với Tự Lãng, Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, tìm đường về mảnh vườn và cái lều của hắn. Hắn định ra sông tắm thì bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Đêm hôm ấy, chúng ngủ với nhau dưới trăng. Đến nửa đêm thì Chí Phèo ốm và được người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” “quàng tay vào nách hắn” để “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”, thị Nở đắp chiếu cho Chí Phèo rồi ra về … Có thể nói cuộc gặp gỡ với thị Nở đã làm thay đổi cuộc đời Chí Phèo vì sáng hôm sau, lần đầu tiên kể từ khi ra tù Chí Phèo tỉnh rượu, thậm chí có cảm giác sợ rượu. Hắn tỉnh dậy và thấy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Hắn nghe thấy những thanh âm của cuộc sống hàng ngày, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc, bình dị của cuộc sống hàng ngày ấy hôm nào chả có nhưng trước đây vì say rượu hắn không nghe thấy. Những âm thanh ấy như tiếng gọi tha thiết của đời sống đánh thức linh hồn Chí, gợi hắn nhớ về ước mơ thời trai trẻ. Hắn nhớ lại ngày xưa, hắn từng mơ ước “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Hắn thấy “chao ôi là buồn!”. Trở về quá khứ giúp hắn nhận thức thực tại, hắn bỗng nhận ra rằng hắn đã ngoài bốn mươi tuổi. Nếu ví cuộc đời con người như một cái dốc thì hắn đã sang cái dốc bên kia cuộc đời. Trận ốm này của hắn như một con gió cuối thu báo biệu mùa đông giá rét, khiến hắn thấy trước một tuổi già đói rét, ốm đau. Và có một điều còn đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau đó là sự cô độc. Hắn vẩn vơ nghĩ ngợi mà muốn khóc.

4.2. Chi tiết bát cháo hành của thị Nở

          Chí Phèo tỉnh rượu là nhờ cuộc gặp gỡ với thị Nở nhưng Chí Phèo thực sự thức tỉnh là nhờ bát cháo hành của thị. Giữa lúc Chí Phèo còn đang vẩn vơ thì Thị Nở mang cho hắn một nồi cháo hành. Điều đó làm Chí Phèo ngạc nhiên. Bởi vì, lâu nay không có ai tự nhiên mà cho hắn cái gì. Muốn có thì hắn phải đâm chém, cướp giật và ăn vạ, phải làm cho người ta sợ. Sau sự ngạc nhiên thì Chí Phèo cảm động bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Hắn thấy mắt mình ươn ướt. Như chúng ta đã từng đọc một số tác phẩm của Nam Cao và thấy rằng dường như những nhân vật thức tỉnh của ông đều gắn liền với nước mắt: Trong Lão Hạc, sau khi lừa bán cậu vàng, lão đã khóc trong sự đau đớn và day dứt. Hay như nhân vật Hộ trong tác phẩm “Đời thừa” cũng vậy. Trong đêm say, Hộ đánh đuổi vợ con ra khỏi nhà rồi khi tỉnh rượu Hộ đã khóc, tự chửi mình là một thằng khốn nạn. Còn Chí Phèo sau khi nhận được sự quan tâm của Thị Nở hắn cũng đã thức tỉnh cùng với nước mắt vì hắn thấy “mắt mình ươn ướt” . Bởi từ sau khi ra tù Chí Phèo muốn có thứ gì Hắn cũng phải giật cướp, phải dọa nạt, phải làm chảy máu và nước mắt của người khác, phải khiến người ta sợ mới có được. Còn hôm nay là lần đầu tiên trong cuộc đời Chí, được một người đàn bà tự nguyện đem cho, tự nguyện chăm sóc hắn. Để rồi kẻ cùng đinh, liều lĩnh ấy nhận ra một chân lý giản đơn: “Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon”. Cái nhận thức có vẻ ngây ngô và hiển nhiên ấy là đúc rút đầu tiên của Chí Phèo trong cuộc đời bị tha hóa. Vậy là trong lòng Chí dâng lên niềm hi vọng Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện.

ở nhìn Chí Phèo ăn cháo hành mà thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Có thể nói, thị Nở là người độc nhất trong làng Vũ Đại cư xử với Chí Phèo như với con người và nhận biết được bản chất lương thiện của hắn. Chỉ có thị mới cảm nhận được “hắn cười nghe thật hiền…”. Có lẽ, Chí Phèo đã cảm nhận được bát cháo mà Thị Nở mang đến không phải là bắt cháo bình thường mà trong đó còn ẩn chứa tình cảm mộc mạc, chân thành của thị dành cho hắn. Đó là bát cháo của hơi ấm tình người và chính bát cháo hành của Thị Nở đã làm cho bản chất lương thiện của Chí Phèo vốn bị vùi lấp giờ có cơ hội trở lại, khiến hắn khát khao có được hạnh phúc với Thị Nở “Giá cứ như thế này thì thích nhỉ?” Hay “Mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” Ôi! Phải là lời của Chí Phèo hay không? Nghe sao mà hiền lành, có chút gì đó ngờ nghệch hồn nhiên mà lại rất đỗi chân thành.

Lời yêu không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến trái tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Từ tron con quỷ dữ, nhờ Thị Nở đúng hơn là nhờ tình thương của Thị Nở đã giúp Chí thực sự trở lại làm người.

Bát cháo hành – biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại khô khát yêu thương. Bát cháo hành có lẽ đối với mỗi người nó chỉ là những thứ vặt vãnh, nhất là khi cháo lại được nấu bởi bàn tay Thị Nở, Nhưng với Chí, bát cháo hành có ý nghĩa vô cùng quan trọng, Nó đã đánh thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện. Bát cháo hành còn thể hiện giá trị nhân đạo của nhà văn. Nam Cao luôn tin rằng trong cái xã hội đen tối thực dân nửa phong kiến ấy sẽ luôn le lói ánh sang của tình người và tình thương.

Như vậy bằng trái tim nhân đạo lớn, nhà văn Nam Cao không chỉ để Chí Phèo trở về với cuộc đời lương thiện mà còn phát hiện bản chất lương thiện của hắn. Hóa ra bản chất lương thiện ấy vẫn âm thầm sống trong tâm hồn Chí Phèo ngay cả khi hắn đã là một con quỷ dữ. Để khi gặp được tấm lòng chân thành của Thị Nở bản chất ấy được hồi sinh. Sự trở về của bản chất lương thiện ở nhân vật Chí Phèo được nhà văn lý giải đầy thuyết phục. Đó là do trận ốm đã khiến Chí Phèo thay đổi cả về tâm lý và sinh lí, khiến hắn tỉnh rượu và hơn cả là do hắn cảm nhận được hơi ấm của tình người.

Hắn nghĩ rằng Thị Nở sẽ là cây cầu nối giúp hắn trở về với xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Thế là sau hơn hai mươi năm bị mất quyền làm người, Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.

5/ Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

Chí Phèo khao khát được trở về với cuộc đời lương thiện nhưng xã hội kia đã không cho phép. Chúng ở bên nhau chẵn năm ngày thì thị Nở chợt nhớ ra thị có một bà cô ở trên đời và người cô này nội trong ngày nay sẽ quay về. Thế là thị Nở vốn dở hơi quyết định dừng yêu đương để về hỏi ý kiến bà cô. Khi được hỏi, bà cô thị Nở quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta, cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của cả làng Vũ Đại. Bà cô Thị Nở chính là đại diện cho xã hội ấy, đại diện cho định kiến trong xã hội. Cả xã hội ấy đã quay lưng lại với Chí Phèo, không ai cho phép hắn trở lại cuộc đời lương thiện. Thậm chí, người tưởng chừng như rất xứng đôi với Chí Phèo cuối cùng cũng đã từ chối hắn. Khi thị Nở trút vào mặt hắn tất cả những lời của bà cô thì đầu tiên hắn thú vị lắc lư cái đầu cười nhưng sau đó, hắn bỗng hiểu ra.

Khi thị Nở đã quay lưng bỏ về, hắn “sửng sốt” đứng lên gọi thị, hắn đuổi theo thị nắm lấy tay. Hắn muốn níu thị ở lại bởi vì hắn ý thức sâu sắc được rằng Thị Nở là con đường duy nhất giúp hắn trở về với cuộc đời lương thiện. Cái nắm tay níu lại ấy cho thấy hắn khao khát trở về với cuộc đời lương thiện đến nhường nào.

Hắn đau đớn vì bị Thị Nở gạt ra, lại bị gúi thêm cho 1 cái ngã lăn, hắn toan đập vỡ đầu nhưng hắn nghĩ đập đầu chỉ thiệt nên hắn uống, càng uống hắn càng tỉnh, hắn lại thoang thoảng ngửi thấy hơi cháo hành, hắn ôm mặt khóc rung rức. giọt nước mắt thể hiện sự đau đớn đên tột cùng của hắn  của hắn

Hắn phẫn uất uống đến say mềm rồi xách dao đi để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà và “đâm chết con đĩ Nở kia” đã chia rẽ tình duyên của hắn. Nhưng bước chân lại đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Có phải vì hắn say, mà những thằng điên và thằng say không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm. Thực ra, Chí Phèo lúc này không hề điên và cũng hề không say, có thể coi đây là những giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về. Chí tỉnh táo để xác định kẻ thù, hiểu rõ kẻ thù của hắn là Bá Kiến

Hắn tuyệt vọng hỏi “ Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Những câu nói ấy vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo để đi đến hành động cuối cùng Chí đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình

Khi lưỡi dao của Chí Phèo vung lên kẻ thù đã phải đền mạng nhưng số phận của Chí thì vẫn không thay đổi. Chí hiểu rõ rằng cánh cửa cuộc đời lương thiện đã đóng lại trước mắt hắn. Bản chất lương thiện đã trở lại, hắn cũng không thể quay trở về với cuộc đời của con quỷ dữ. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là tìm đến cái chết để chấm dứt cuộc đời đầy bi kịch của hắn. Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí đã cho thấy, đối với Chí Phèo khao khát trở về với cuộc đời lương thiện của hắn còn cao hơn cả mạng sống. Nó cũng là lời tố cáo đanh thép với xã hội thực dân phong kiến. Xã hội ấy không những đẩy người nông dân vào con đường cùng bần hoá, lưu manh hóa mà đến khi họ thức tỉnh lại không cho phép họ trở về với cuộc đời lương thiện, đẩy họ vào chỗ chết. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo “Ai cho tao lương thiện?” còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.

6/Đánh giá chung

6.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Nhân vật Chí Phèo được xây dựng rất thành công bằng nghệ thuật điển hình hóa. Nhân vật xuất hiện với ngoại hình gây chú ý và được miêu tả ở nhiều điểm nhìn khác nhau, lúc được miêu tả qua con mắt tác giả, lúc lại qua con mắt của thị Nở và Bá Kiến. Nội tâm của nhân vật, ngôn ngữ đối thoại và hành động được sử dụng để khắc họa tính cách, khiến nhân vật hiện lên sinh động trong trí tưởng tượng của bạn đọc. Hơn nữa, kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà sống động, linh hoạt cũng góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.

6.2. Nội dung

Qua nhân vật Chí Phèo, tác phẩm vừa bộc lộ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc, xứng đáng được coi là một kiệt tác của văn học Việt Nam thế kỉ XX.

– Giá trị hiện thực: Tác phẩm đã phơi bày hiện thực, lên án tố cáo xã hội đương thời. Xã hội ấy đã đẩy người nông dân và bi kịch tha hóa, bi kịch bị cự tuyệt làm người. Mặt khác, với hai cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến, tác phẩm đã cho thấy mâu thuẫn giai cấp trong xã hội nông thôn Việt Nam Nam 1930-1945 đã trở nên rất gay gắt. Mâu thuẫn ấy chỉ có thể được giải quyết bằng các biện pháp quyết liệt.

– Giá trị nhân đạo: Nhà văn Nam Cao đã kể về bi kịch của Chí Phèo bằng một sự đồng cảm chia sẻ, thương xót chân thành. Bằng trái tim nhân đạo, ông phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân. Bản chất ấy có thể có lúc bị che lấp mất nhưng nó vẫn le lói và chờ cơ hội được hồi sinh. Từ đó, tác giả thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình người, vào nhân tính và bản chất tốt đẹp của con người. Những câu nói cuối cùng của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm “Tao muốn làm người lương thiện”. “Ai cho tao lương thiện?” là tiếng nói đòi quyền sống cho con người, là hồi chuông gióng lên để cảnh tỉnh xã hội, cần phải có sự thay đổi để không còn ai rơi vào bi kịch như Chí Phèo.

III. KẾT LUẬN

Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Nhưng khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.

🔻 Xem thêm:

Exit mobile version