Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Tài liệu văn 11] Phân tích bài thơ “Thương vợ” của nhà thơ Tú Xương

Phân tích bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không!

I/ Mở bài

Tú Xương là một trong những nhà thơ độc đáo của nền văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Ông là người thông minh, hiểu biết rộng nhưng lại lận đận trên con đường khoa cử, từng 8 lần đi thi mà chỉ đỗ tú tài vì phạm húy. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân nhưng ông đã để lại một sự nghiệp thơ ca bất tử. Sáng tác của Tú Xương có hai mảng lớn song hành với nhau : trào phúng và trữ tình. Ở mảng thơ trữ tình, ông có hẳn một đề tài viết về vợ của mình với tấm lòng yêu thương, trân trọng, biết ơn. Trong đó, “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay nhất.

II/ Thân bài

1/ Khái quát

Bài thơ “Thương vợ” nằm trong đề tài viết về vợ của Tú Xương. Viết về vợ là điều hiếm thấy trong thơ xưa, nhất là khi vợ đang còn sống. Nhưng với Tú Xương, ông có hẳn một đề tài về bà Tú. “Thương vợ” có thể xem là bài thơ hay nhất ở đề tài này. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể Thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ đã vẽ nên bức chân dung bà Tú chịu thương, chịu khó, tần tảo, đảm đang, thương chồng, thương con và giàu đức hi sinh, đồng thời thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng vợ và nhân cách cao cả của ông Tú.

2/ Phân tích bài thơ
a/ Hai câu đề mở đầu bài thơ đã giới thiệu về công việc và công lao của bà Tú:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Câu thơ đầu tiên đã mang đến cho người đọc những thông tin về bà Tú. Bà Tú làm nghề buôn bán (gạo). “Quanh năm” là từ để chỉ vòng thời gian tuần hoàn, ngày nối ngày, tháng tiếp tháng, năm nối năm, không có thời gian ngưng nghỉ. “Mom sông” chính là địa điểm, là nơi diễn ra hoạt động mua bán thường ngày của bà Tú. Đó là một phần đất nhô ra phía lòng sông, rất chênh vênh, nguy hiểm. Bà Tú hiện lên trong câu thơ với biết bao khó nhọc, gian truân. Vòng quay vô kì hạn của thời gian đã keos bà vào cuộc mưu sinh đầy vất vả.

Câu thơ thứ hai lại cho thấy vai trò trụ cột trong gia đình của bà Tú. “Nuôi đủ” tức là đủ về số lượng 6 miệng ăn, chưa kể chính bà; là đủ về thành phần – cả chồng lẫn con; và còn đủ ăn, đủ mặc, đủ cho những thú vui của ông Tú. “Năm con với một chồng” là cách nói đếm con, đếm chồng rất đặc biệt. Tú Xương tách mình riêng ra, đặt mình sau con nghĩa là ông tự thấy hổ thẹn về cái sự vô tích sự của mình, ông tự thấy mình cũng là thứ con đặc biệt của bà Tú mà một mình ông còn nặng gánh hơn cả năm đứa con thơ dại. Câu thơ thấp thoáng nụ cười của ông chồng “dài lưng tốn vải” – một nụ cười méo mó, đáng thương.

Có thể nói, hai câu đề đã khắc họa thành công chân dung của bà Tú – một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, phải chịu nhiều vất vả, gian truân.

b/ Đến với hai câu thực, ta lại thấy rõ hơn nỗi vất vả của bà Tú trong cuộc mưu sinh:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Phép đảo ngữ đưa từ “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu đã tô đậm nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú trong công cuộc mưu sinh nuôi chồng và đàn con thơ dại. “Thân cò” là hình ảnh ẩn dụ miêu tả những nhọc nhằn của bà Tú. Đó là một hình ảnh đầy ám ảnh, gợi dáng dấp nhỏ bé, chịu đựng, bơ vơ, côi cút đến tội nghiệp. Bối cảnh làm việc đầy nguy hiểm của bà Tú được gợi tả qua các từ ngữ “khi quãng vắng”, “buổi đò đông” không người chở che, lại phải chen lấn, xô đẩy, bon chen nhọc nhằn. Tất cả đã góp khắc sâu hơn nỗi nhọc nhằn trong công cuộc mưu sinh của bà Tú. Đằng sau đó, ta còn thấy nỗi uất nghẹn của người chồng nhìn thấy nỗi cơ cực của vợ mà không thể đỡ đần. Và hơn cả là nỗi niềm thương xót, cảm phục và lòng biết ơn sâu sắc của ông Tú dành cho bà Tú.

c/ Hai câu luận vẫn là hình ảnh bà Tú trong nỗi niềm cảm thương của ông Tú:

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.

“Duyên” ấy là mối quan hệ vợ chồng do trời định sẵn, do ông Tơ bà Nguyện xe nên. “Nợ” là gánh nặng phải chịu. Vợ chồng lấy nhau tốt đẹp là duyên, ngang trái là nợ. Thành ngữ và cách nói tăng cấp “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” đã khắc họa cuộc đời cơ cực, tủi nhục của bà Tú. Bà với ông Tú duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông Tú tự thấy mình là một gánh nợ trong suốt cuộc đời của vợ. Nhưng người mẹ, người vợ đó không hề ý thức được rằng đó là sự hi sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà làm việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, không hề oán trách. Bà coi đó như một lẽ thường tình, nào có kể công. Cách nói cam chịu “âu đành phận”, “dám quản công” là ông Tú ngao ngán cho chính mình, xót xa cho thân phận bà Tú mà thốt lên, mà kể công thay cho bà. Câu thơ như nén một tiếng thở dài đầy não nề của ông Tú.

Có thể nói, sáu câu đầu đã khắc họa thành công hình ảnh bà Tú trong vất vả, gian truân vẫn ngời sáng lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống – người vợ, người mẹ đảm đang, tháo vát, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu chồng, thương con. Hình ảnh bà Tú vì thế vừa đáng thương lại vừa đáng trọng.

d/ Hai câu kết là hình ảnh của ông Tú với tiếng chửi đời chua cay:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Tiếng chửi ném vào cuộc đời và ném vào chính mình, ông chửi thói đời đã làm khổ bà Tú. “Thói đời” chính là những quy tắc hà khắc của chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử, coi việc nhà, việc mưu sinh là của đàn bà, đàn ông không được đụng tay đến, cho nên người chồng không được giúp đỡ vợ. Chồng là nhà nho thì chỉ biết ăn, học, lều chõng, thi cử còn vợ phải một mình lo kinh tế gia đình, chèo chống giang sơn nhà chồng.

Chửi thói đời đen bạc chưa hả, ông quay sang chửi chính mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông tự nhận mình là người chồng vô tích sự, không biết làm gì cho vợ đỡ khổ, lại còn ăn bám vợ. Tự nhận mình là người chồng hờ hững chứng tỏ ông hề hờ hững khi ông tự nhận ra những thiếu sót của mình và tự lên án mình một cách gay gắt. Tiếng chửi xuất phát từ lòng yêu thương và biết ơn vợ vô bờ bến. Rõ ràng, ta nhận thấy ông Tú cũng là người vừa đáng thương lại vừa đáng trọng.

3/Đánh giá

Thơ xưa viết về vợ đã hiếm, viết về vợ và ca ngợi, trân trọng vợ ngay khi vợ đang còn sống lại càng hiếm thấy hơn. Cả bài thơ với việc sử dụng sáng tạo thi liệu và ngôn ngữ văn học học dân gian cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trào phúng và chất trữ tình, Tú Xương đã gửi đến người đọc một cách nhìn tiến bộ về người phụ nữ, giúp ta thêm hiểu và trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của họ.

III/ Kết bài

Có thể nói “Thương vợ” là bài thơ viết về vợ hay và cảm động nhất của Tú Xương. Bài thơ đã vẽ lên bức chân dung bà Tú mang những vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam: tần tảo, đảm đang, chịu thương chịu khó, yêu chồng, thương con, giàu đức hi sinh. Qua đó, ta cũng thấy được tấm lòng yêu thương, trân trọng vợ và nhân cách cao đẹp của Tú Xương.

Exit mobile version