ĐỌC TIỂU THANH KÍ
– Nguyễn Du-
I/ TÌM HIỂU CHUNG
1/ Tác giả
Nguyễn Du là bậc đại thi hào dân tộc, là nhà thơ hiện thực, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam. Nhắc đến Nguyễn Du trước hết người ta sẽ nghĩ ngay đến Truyện Kiều. Nhưng ngoài áng “thiên cổ tình thư” ấy, Nguyễn Du còn có nhiều tác phẩm tuyệt bút. Thơ của Nguyễn Du chủ yếu thuộc loại thơ cảm thương. Thương người nghèo, thương người đói, thương con người trong cuộc bể dâu. Là một con người có tấm lòng nhân đạo cao cả, là người nghệ sĩ có tình yêu tha thiết với cái đẹp, nên tình cảm và tâm huyết của ông tập trung ở những bài thơ về thân phận “tài hoa bạc mệnh”. Đó là nàng Kiều, là người ca nữ đất Long Thành, là nàng Tiểu Thanh… Có thể nói : trân trọng tài năng và đồng cảm với số phận bi kịch của họ là tinh thần nhân đạo xuyên suốt trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Du.
Sê khốp từng khẳng định “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tủy”, Nam Cao cũng viết “Một tác phẩm chân chính là một tác phẩm vượt qua bờ cõi, và giới hạn, chứa đựng những điều vừa lớn lao, vừa đau khổ, ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình nó làm cho người gần người hơn”. Nguyễn Du và “Đọc Tiểu Thanh kí” của ông là một nhà thơ, một thi phẩm như thế. Tên tuổi của Nguyễn Du và bài thơ đã vượt qua thời gian và biên giới Việt Nam để thể hiện tình thương ái vô biên và những triết lí, suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời và con người.
2/ Tác phẩm
– “Đọc Tiểu Thanh kí” là bài thơ về đề tài người phụ nữ, một đề tài ít được các nhà thơ trung đại đề cập đến. Nguyễn Du viết nhiều về người phụ nữ với tất cả tấm lòng trân trọng, thương yêu, đồng cảm và chia sẻ. Hầu như những tác phẩm xuất sắc nhất của ông đều là những tác phẩm viết về người phụ nữ, bên cạnh kiệt tác “Truyện Kiều” còn có “Long thành cầm giả ca”, “Độc Tiểu Thanh kí“… Dường như đại thi hào có một mối “đồng cảm tương liên” sâu nặng với những người phụ nữ tài hoa, nhan sắc nhưng phải chịu số phận bi thương. Có lẽ vì số phận của họ khá tương đồng với thân phận của những nhà nho thất sủng trong xã hội loạn lạc, suy thoái. Nguyễn Du từng đau đớn mà thốt lên rằng:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hay:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
(Văn chiêu hồn – Nguyễn Du)
– Bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” có thể được sáng tác trong thời gian Nguyễn Du đi sứ sang Trung Quốc và được gợi cảm hứng từ một câu chuyện về một cô gái Trung Quốc tên là Tiểu Thanh sống vào đầu đời nhà Minh. Tiểu Thanh là người con gái vẹn toàn tài năng và nhan sắc, vì nhà nghèo cho nên bị gả làm vợ lẽ cho một người nhà giàu. Người vợ cả muốn thỏa lòng ghen nên tìm cách cô lập, bắt nàng ra sống một mình ở Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Nàng Tiểu Thanh chỉ biết làm thơ để bày tỏ sự uất ức, cô đơn và đau khổ. Những vần thơ đầy huyết lệ ấy không đủ làm vơi bớt muộn phiền nên Tiểu Thanh chết ở tuổi 18, độ tuổi đẹp nhất đời người. Khi Tiểu Thanh chết, người vợ cả vẫn chưa hết ghen hờn nên mang thơ của nàng ra để đốt. May mắn thay vẫn còn những bài thơ sót lại được người đời khắc in gọi là “Phần dư”. Và câu chuyện về nàng Tiểu Thanh đã làm trái tim nhà thơ lớn không ngừng thổn thức.
II/ PHÂN TÍCH
1/ Hai câu đề
Hai câu đầu tả cảnh mà để kể việc:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Tây Hồ nằm cạnh núi Cô Sơn, nơi Tiểu Thanh phải sống một mình trước khi chết. Từ “hoa uyển” trong nguyên tác cho thấy trước đây Tây Hồ là một cảnh đẹp với vườn hoa rực rỡ, lộng lẫy, là một nét tô điểm diệu kì của thiên nhiên, tạo hóa. Nhưng bây giờ nó đã thành “khư” là một gò hoang lạnh lẽo, tiêu điều, hoang phế. Nguyễn Du đã sử dụng một chữ “tẫn” tài tình để thể hiện sự thay đổi triệt để và khốc liệt của cảnh vật. Nghệ thuật đối lập càng làm nổi bật sự khác biệt ghê gớm giữa quá khứ huy hoàng và hiện tại thảm khốc.
Tây Hồ xưa nay vẫn là một cảnh đẹp. Có thể sự thay đổi của cảnh vật Hồ Tây thực ra là chỉ diễn ra trong tâm tưởng của nhà thơ. Nhà thơ muốn mượn sự thay đổi ấy để nói đến sự thay đổi khốc liệt của cuộc đời nàng Tiểu Thanh. Từ một người con gái xinh đẹp, tài hoa, thanh xuân phơi phới mà bỗng đâu đã “thoắt gãy cành thiên hương”. Đau xót và thương tiếc trước cái chết của Tiểu Thanh khiến cảnh đẹp Tây Hồ trong mắt nhà thơ chỉ còn là một nấm mộ hoang tàn.
Sự thay đổi khốc liệt của thiên nhiên, tạo vật cũng như sự biến đổi khôn lường của cuộc đời con người đã khiến nhà thơ không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối, xót xa. Sự biến thiên của tạo vật, cuộc đời có thể làm biển cả hóa nương dâu, khiến cuộc đời người con gái tài sắc trở thành ngắn ngủi, bi thương. Những trải nghiệm cuộc đời ấy đã khiến Nguyễn Du viết thành những câu thơ nhức nhối:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
– Đúng như phát biểu của Lâm Ngữ Đường “Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ”, Nguyễn Du đã viết “Độc Tiểu Thanh kí” bằng dòng nước mắt văn chương nóng bỏng. Vượt qua khoảng cách về không gian, thời gian và văn hóa, nhà thơ đã thương xót, đã khóc vì người con gái tài sắc ở xứ người bằng những rung cảm mạnh mẽ. Muốn bày tỏ sự bi thương trước số phận nàng Tiểu Thanh, muốn bày tỏ sự tri âm tri kỉ với một tâm hồn cô đơn nhưng người xưa đã khuất bóng từ hàng mấy trăm năm trước, Nguyễn Du chỉ còn biết viếng nàng qua việc đọc tập sách về nàng. Thế mới hay những kẻ có tâm hồn đồng điệu sẽ có những tín hiệu thẩm mĩ riêng để tìm đến nhau bày tỏ sự tri âm, tri kỉ. Thúy Kiều gặp nấm đất sè sè bên đường thì thương xót Đạm Tiên như thương xót chính mình, còn Nguyễn Du chỉ đọc tập sách về (của) Tiểu Thanh trước cửa sổ đã không nguôi thổn thức. Sử dụng từ ngữ độc điếu (một mình viếng) – nhất chỉ thư (một tập sách), Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh.
=> Có thể nói, hai câu thơ mở đầu là tiếng thở dài, một tiếng khóc trước lẽ biến thiên của cuộc đời dâu bể và niềm thổn thức, xót thương của một tâm hồn nhân đạo lớn trước số phận con người.
2/ Hai câu thực: nêu lên những suy nghĩ về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nhà thơ đã sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng để tái hiện lại một cách chân thực vẻ đẹp và số phận của nàng Tiểu Thanh. Son phấn vốn là những vật dụng để điểm tô nhan sắc cho người phụ nữ và ở đây nó tượng trưng cho nhan sắc của Tiểu Thanh. Văn chương là ẩn dụ cho tài năng thơ phú, tài năng nói chung của Tiểu Thanh. Thông qua ngôn từ của Nguyễn Du, nàng Tiểu Thanh hiện lên là hiện thân của cái đẹp hoàn mĩ, vẻ đẹp mà người đời ai cũng khao khát. Nhưng cũng giống như Thúy Kiều và người con gái gảy đàn ở đất Long Thành, tài năng và nhan sắc của Tiểu Thanh chỉ đem đến cho nàng bất hạnh. Tài hoa, nhan sắc hơn người chỉ khiến cho người đời ghen ghét, đố kị, là nguyên nhân của bất hạnh. Bi kịch của những người tài năng, nhan sắc hơn người đã khiến người xưa phải than thở “Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh” hoặc:
“Mĩ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”
(Người đẹp xưa nay như danh tướng – Trời xanh chẳng để sống đến bạc đầu)
Chỉ có một cái tài hoặc cái sắc thôi đã đủ làm người ta bất hạnh, Tiểu Thanh lại có cả hai nên sự bất hạnh giáng xuống số phận của nàng thật xiết bao đau đớn, nàng phải chết trong cô đơn, buồn tủi khi mới 18 xuân xanh. Nhưng bất hạnh của Tiểu Thanh đâu đã dừng lại ở đó, ngay cả khi nàng chết rồi người vợ cả vẫn trút thêm sự hờn ghen, đố kị bằng việc đem những vần thơ huyết lệ của nàng ra để đốt. Văn chương không có tội, không có số mệnh nhưng vẫn bị liên lụy trong bi kịch tài sắc. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Thúy Kiều khóc bên mộ Đạm Tiên và nhận ra rằng:
“Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách còn là tinh anh”
Đối với những người tài hoa, cái chết chỉ là về thể xác, còn phần tinh anh là linh hồn thì vẫn còn hiển hiện. Và nếu như vậy, linh hồn nàng Tiểu Thanh ở nơi chín suối vẫn phải uất ức, xót xa, đau đớn về những việc sau khi chết.
– Hai câu thực không chỉ tái hiện cuộc đời Tiểu Thanh mà qua cuộc đời Tiểu Thanh còn phơi bày và phê phán hiện thực xã hội đương thời. Trong xã hội ấy, con người không có quyền sống cá nhân. Đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ khiến người phụ nữ bị phân biệt đối xử, phải sống trong cảnh vợ lẽ nàng hầu. Xã hội ấy tồn tại biết bao trái ngang, bất công, phi lí khiến cái tài, cái đẹp bị chà đạp phũ phàng, gây bao đau thương, ai oán cho con người.
3/ Hai câu luận
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
– Nàng Tiểu Thanh tài sắc đã phải chết trong oán hận. Từ số phận nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã nhìn rộng hơn để nhận ra rằng bi kịch của những người tài sắc đã trở thành mối hờn oán của con người từ cổ chí kim, trở thành một quy luật, định lệ khó có thể thay đổi. Số phận bất hạnh của Tiểu Thanh suy cho cùng nằm trong cái án chung cho những kẻ tài tử, phong nhã. “Hận sự” ấy của con người dẫu tồn tại từ bao đời, nhận thức được là thế nhưng đến khi nhắm mắt xuôi tay con người vẫn không thể lí giải, có đem hỏi trời thì trời cũng không trả lời. Vậy nên, dẫu có biết là oan ức thì cũng không làm gì được, phải chấp nhận mà thôi.
– Ở đây, Nguyễn Du cũng đồng thời nhận ra mối “phong vận kì oan” của chính mình. Ông tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh, mắc phải nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã, cũng phải chịu cái án chung của những tài tử, giai nhân. Nguyễn Du từng tự nhận thức về bản thân “Tráng niên ngã diệc chi tài giả” (Lúc trẻ tuổi ta cũng là người có tài). Có phải vì tài tử mà truân chuyên nên Nguyễn Du cũng rơi vào bi kịch như Tiểu Thanh, như nàng Kiều. Liệu có phải chính mười năm đoạn trường trong cuộc đời của ông đã khiến ông có đủ trải nghiệm mà viết nên khúc “Đoạn trường tân thanh” đứt ruột, mà biết đau trước bi kịch của Tiểu Thanh.
– Ngoài ra, hai câu luận trong bài thơ đã thể hiện tầm vóc của một nhà thơ lớn, một nhà nhân đạo lớn. Nguyễn Du vốn xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, là một đấng nam nhi tài tử. Vậy mà, trong xã hội trọng nam khinh nữ, ông lại nhận mình cùng hội với một người con gái, lại dám nói lên tiếng nói đồng cảm, bênh vực người phụ nữ. Hẳn đó là vì Nguyễn Du đã vượt ra khỏi nhận thức của thời đại mình để thể hiện tiếng nói nhân đạo đầy mới mẻ, sâu sắc.
4/ Hai câu kết
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
– Hai câu cuối lạ, chuyển ý bất ngờ, niêm luật không chú trọng mà không lạc dòng cảm xúc, ý tứ đến cũng tự nhiên và hợp lí. Từ thương người, Nguyễn Du chuyển mạch đến thương mình. Hai câu thơ kết cấu thành một câu hỏi, câu hỏi hướng đến những điệu hồn tri âm. Không hỏi quá khứ, không hỏi hiện tại, vì quá khứ và hiện tại đều bế tắc. Câu hỏi hướng đến tương lai. Nguyễn Du cũng không hỏi trời, ông hỏi người vì còn mong ở đời có thể tìm thấy những tri âm. Với nàng Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn thức”, không biết “với mình” liệu ba trăm năm sau có ai biết đến mà cảm thông ? Câu thơ trĩu nặng. Hai từ bất tri (không biết) đầy tủi hổ tưởng có thể buông xuôi. Nhưng câu thơ vẫn là một niềm tin. Nguyễn Du vẫn tin ở nhân tâm của con người.
– Hơn nữa, hai câu thơ còn khiến cho người đọc day dứt mà chợt hiểu ra rằng, Nguyễn Du hẳn đã phải cô đơn, bế tắc trong thời đại của mình đến thế nào mới phải tìm đến sự đồng cảm, tri âm từ các thế hệ sau. Có thấu hiểu trái tim nhân đạo lớn của Nguyễn Du mới cảm nhận được những trăn trở, băn khoăn của ông rằng không biết ba trăm năm có lẻ sau, người đời còn có ai phải chịu nỗi bất hạnh như nỗi bất hạnh của ông, của Tiểu Thanh, của những kẻ đã phải nhận cái án phong lưu nữa hay không?
Thơ hoài cổ thường là tiếng khóc dành cho những cố nhân. Thơ Nguyễn Du không hoàn toàn như vậy. Nhớ đến, thương đến cố nhân, tác giả chạnh lòng thương chính bản thân mình và những người nghệ sĩ. Nó chính là khởi nguồn cho cảm hứng nhân văn cao cả của bài thơ.
Giá trị nhân bản đặc sắc của bài thơ là ở chỗ Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề về quyền sống của người nghệ sĩ. Từ sự thương xót và đồng cảm với Tiểu Thanh, nhà thơ muốn gửi gắm sự trân trọng của mình đến những người nghệ sĩ nói chung – những chủ nhân của những giá trị tinh thần. Bày tỏ sự cảm thông chia sẻ với họ là một dấu hiệu tiến bộ trong chủ nghĩa nhân bản của Nguyễn Du. Tình thương yêu và sự quan tâm của nhà thơ lúc ấy đã vượt qua những giới hạn về không gian và thời gian. Nó không chỉ là sự quan tâm chia sẻ với những con người bất hạnh (những cảnh đói cơm, rách áo) mà hơn thế nữa còn là sự thương yêu và trân trọng con người nói chung.
III/ TỔNG KẾT
“Độc Tiểu Thanh kí” tuân thủ những quy tắc nghiêm túc và chặt chẽ của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn ngữ trữ tình đậm chất triết lý, từ ngữ cô đọng, hàm súc, hình ảnh giàu tính biểu tượng, sử dụng tài tình phép đối, câu hỏi tu từ và khả năng thống nhất những mặt đối lập trong hình ảnh, ngôn từ. Và với giọng điệu xót thương, bi phẫn, ngậm ngùi, bài thơ thể hiện thái độ phê phán với xã hội đương thời và những cảm xúc, suy tư về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh. Tác phẩm bộc lộ tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du, đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm cô đơn, khao khát có người tri âm, tri kỉ của đại thi hào. Nhà lí luận phê bình người Nga Bêlinxki khẳng định “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Dựa vào đó, chúng ta có thể tin tưởng rằng những tác phẩm chứa chan tình người, mạng nặng nỗi ưu tư về con người của Nguyễn Du sẽ vượt qua quy luật của sự băng hoại mà sống mãi với thời gian.