Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Tài liệu văn 10 KNTT] Phân tích bài thơ của Mát-chư-ô Ba-sô

Đề bài : Phân tích bài thơ của Mát-chư-ô Ba-sô

Thơ Hai-cư là thể thơ truyền thống có vị trí quan trọng trong văn học Nhật Bản, đồng thời được xem là một trong những hình thức cô đọng nhất của thơ ca thế giới. Một trong những bậc thầy về thơ hai-cư là Mát-chư-ô Ba-sô. Mát-chư-ô Ba-sô (1644 – 1694) là nhà thơ nổi tiếng của văn học Nhật Bản. Ông sinh trưởng trong một gia đình võ sĩ đạo Xa-mu-rai ở thành phố U-e-cô, Nhật Bản. Các tác phẩm của ông để lại khá nhiều, sau này được sưu tập lại trong Ba Tiêu thất bộ tập.  Ba-sô là người có công lớn trong việc hoàn thiện thể thơ Hai-cư, đưa nó trở thành thể thơ độc đáo nhất của Nhật Bản. Thơ Hai-cư của Ba-sô rất có giá trị, phổ biến không những trong nước mà còn nổi tiếng khắp thế giới. Thơ ông là sự dung hợp và hài hòa giữa thiên nhiên và tấm lòng của người thi sĩ, mang vẻ đẹp đơn sơ, tao nhã, cô liêu, trầm lắng, u buồn, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi. Một trong những bài thơ Hai-cư tiêu biểu cho hồn thơ của ông là bài thơ:

Trên cành khô

                   cánh quạ đậu

                   chiều thu.

Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII – XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca… Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.  Bài thơ Hai-cư trong tiếng Nhật chỉ gồm 17 âm tiết chia thành 3 dòng thơ (dòng 1 và dòng 3 có năm âm tiết; dòng 2 có bảy âm tiết). Các bản dịch tiếng Việt thường không đáp ứng được đầy đủ đòi hỏi của quy tắc trên nhưng vẫn đảm bảo được sự ngắn gọn, hàm súc đặc trưng của thể thơ này. Một bài Hai-cư Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là bốn mùa của thiên nhiên và tính tương quan giữa hai ý tưởng. Trong thơ bắt buộc phải có kigo (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa màng một cách gián tiếp. Trong bà không nói rõ xuân, hạ, thu, đông nhưng sẽ nhắc đến hoa anh đào, lá úa vàng, tuyết phủ trắng… Ngoài ra bài thơ sẽ liên kết một hình ảnh bao la của vũ trụ ăn khớp với một hình ảnh bé nhỏ của đời thường. Đây chính là điểm đặc biệt, hấp dẫn của bài thơ hai-cư. Thơ hai-cư thường thấm đẫm tinh thần Thiền tông và văn hóa phương Đông, đề cao sự vắng lặng, đơn sơ, u huyền và phản ánh sự vật trong mối tương quan, giao hòa, thể hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng nhưng cũng đậm tính tượng trưng. Khởi nguồn từ Nhật Bản, ngày nay, hai-cư đã trở thành thể thơ được sáng tác bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Thơ hai-cư hiện đại có những đặc điểm riêng về bút pháp trong khi vẫn bảo lưu một số nguyên tắc quan trọng của tư duy và mĩ cảm cùa thơ hai-cư truyền thống như bài thơ được cấu tứ quanh một phát hiện mang tính chất “bừng ngộ” về mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, về sự tương thông đầy bí ẩn giữa thế giới và con người; thơ thiên về khơi gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp dẫn của thơ hai-cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn gợi nhiều cảm xúc và suy tưởng.

Bài thơ Trên cành khô / cánh quạ đậu / chiều thu được sáng tác vào năm 1679 khi Ba-sô ba mươi lăm tuổi. Bài thơ tạo nên sức ám ảnh lạ kì  và có tác động mạnh mẽ đến người đọc. Trong bài thơ này, yếu tố mùa được thể hiện rất rõ ở từng câu chữ chứ không đợi đến quý ngữ cuối bài. Đây là bài thơ về mùa thu và thời điểm chính xác có lẽ là cuối thu, khi chim quạ đã xuất hiện, khi lá cây đã rụng hết chỉ còn lại cành khô. Tác giả sử dụng quý ngữ chiều thu kết hợp với hình ảnh cành khô gợi sự trơ trụi, không lá vàng và cũng không có chồi non. Đến với không gian của chiều thu buồn vắng ấy là độc giả đã cùng với thi nhân đắm chìm vào miền tịch tĩnh giữa bao la đất trời. Khoảnh khắc được thể hiện trong bài thơ của Ba-sô có thể khơi gợi nhiều cảm xúc ở người đọc.

Tác giả đã sử dụng bút pháp chấm phá gợi hơn là tả, vẽ ra một bức tranh thủy mạc đơn sơ mà có chiều sâu. Bức tranh thu được gợi ra trước hết từ những tín hiệu không gian, thời gian và màu sắc.  Hình ảnh trong bài thơ có lẽ phần nào thể hiện tâm cảm thi nhân mặc dù nó như chỉ được chớp lấy trong một ánh nhìn, một không gian, thời gian nhất định. Bài thơ mang nỗi buồn của buổi chiều tà, của lúc tàn thu, sự ngưng đọng, lặng im của cảnh vật… Giống như mọi bài thơ Hai-cư khác, cái tôi thi nhân không bao giờ xuất hiện trong thi phẩm nhưng từ những gì nhà thơ gửi gắm sẽ khởi sự cho trí tưởng tượng vô biên của độc giả. Cành khô màu nâu xám, chim quạ chắc chắn là màu đen (hoặc xám) và màu vàng (chiều thu). Đây là những gam màu chủ đạo của hội họa thủy mặc, một loại hình nghệ thuật mà chất liệt chính là màu nước đen và giấy trắng.

Hình ảnh trung tâm trong bài thơ là con quạ. Hình ảnh “con quạ” trước hết hiện lên với màu đen xám, nhỏ bé và ngoài ý nghĩa tả thực ấy còn có ý nghĩa tượng trưng, là biểu tượng của sự cô đơn, cô độc giữa đất trời rộng lớn. Thân hình đen muội nhỏ xíu của con quạ trong bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm trên cành cây trơ trụi khiến người đọc như bước vào cảnh giới u huyền và cô tịch, một thế giới hư không. Hình ảnh con quạ xuất hiện cùng với hình ảnh cành cây khô càng khiến bức tranh cảnh vật chiều thu toát ra sự cô tịch, tàn úa. Đọc bài thơ, ta thấy nền trời của buổi chiều thu hoang vắng hình ảnh một cánh chim ủ rũ đậu trên cành cây khô héo và chắc chắn những hình ảnh đó không thể được tạo dựng bằng những đường nét mềm mại mà phải bằng sự gân guốc, cứng cáp và đối xứng cũng là phong cách của tranh thủy mặc.

Hình ảnh cánh quạ đậu trên cành khô trong bài thơ gợi lên một không gian chiều thu vắng lặng, đơn sơ, nhẹ nhàng. Nhưng còn một yếu tố không kém phần quan trọng khiến thi phẩm “con quạ” của Ba-sô trở nên bất hủ là sự tương phản, đối lập một cách hài hòa trong sử dụng hình ảnh. Đó là sự tương phản, đối lập giữa hình ảnh trên cành khô quạ đậu và chiều thu. Một bên nhỏ hẹp, hiện hữu, một bên rộng lớn, mơ hồ. Cành khô quạ đậu là cái có thể nắm bắt còn chiều thu là một khái niệm chung chung. Sự đối lập ấy đã tạo thành một chỉnh thể, một bức tranh hoàn chỉnh: trên cái nền hoang vắng mơ hồ của buổi chiều thu, nổi bật lên hình hài màu đen của một chú quạ đậu trên cành khô. Yếu tố cổ tích (Sí-bi) trong bài thơ này thể hiện đậm nét hơn bất cứ thi phẩm nào khác của Ba-sô.

Mặc dù bài thơ này không tuân thủ theo quy luật thông thường 5/7/5 của Hai-cư thường vẫn luôn được coi là thi phẩm mẫu mực bởi cấu tứ, ý tưởng và sự bứt phá trong cái hài hòa mà nó mang lại cho cảm giác của người đọc. Bài thơ, các nhà nghiên cứu thường nhận xét, đúng là một bức tranh thủy mặc

III. KẾT LUẬN

Ba-sô có nhiều đóng góp cho thơ Hai-cư truyền thống của Nhật Bản, mỗi bài thơ Hai-cư của ông đều thấm nhuần cảm xúc sa-bi tức là nỗi cô đơn huyền diệu của thiên nhiên, niềm cô đơn vô ngã và tịch mịch, vắng vẻ của muôn đời, đều đậm chất thơ, chất thi vị,  lãng mạn. Tình yêu cuộc sống là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người là giá trị nhân sinh cốt lõi trong thơ của Ba-sô, khiến thơ ông được bạn đọc trên khắp thế giới đón nhận nồng nhiệt.

Exit mobile version