Site icon Lớp Văn Cô Thu

Suy nghĩ của anh chị về ý nghĩa triết lí nhân linh, trong 2 lời thoại : Hồn Trương Ba trong cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích

Đề bài: Suy nghĩ của anh chị về ý nghĩa triết lí nhân linh, trong 2 lời thoại : Hồn Trương Ba trong cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích.
“Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là tôi toàn vẹn”. “Sống nhờ vào đồ đạc của người khác đã là một chuyện không nên, mà đằng này đến cái thân tôi cũng sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghỉ đơn giản là tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.”

I. Mở Bài

– Trong cuộc trò chuyện của Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nới tác giả gửi gắm quan niệm về hạnh phúc , về lẽ sống và cái chết.
– Hai lời thoại của Hồn Trương Ba có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mang màu sắc triết lí nhân sinh sâu sắc.

II. Thân Bài

1. Ý nghĩa triết lí của hai lời thoại.

a. Lời thoại 1:

– Khẳng định con người là 1 thể thống nhất có sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn.
– Vì không thể có một tâm hồn thanh cao trong 1 thân xác phàm tục tội lỗi.
– Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của than xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác. Không thể tự an ủi vỗ về mình bằng vẽ đẹp siêu hình của tâm hồn.

b. Lời thoại 2:

– Sống thật sự cho ra con người không phải dễ dàng đơn giản chút nào. Khi sống nhờ giả, sống chấp và không được sống cuộc sống của chính mình thì sự sống đó là vô nghĩa.
– Sự vênh lệch giữa tâm hồn và thể xác chính là bi kịch của cuộc đời của 1 con người.

2. Ý nghĩa đó có ảnh hưởng như thế nào đến thực tại

– Trong cuộc sống thực tại con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ biết hưởng thụ vì thế mà trở thành phàm phu thô thiển (Vì thoả mãn nhu cầu ham muốn của bản than mà con người xa vào các tệ nạn như: cờ bạc, rượu chè, có hành vi phạm pháp.
– Có người lấy cớ tâm hồn là cao quý đời sống tinh thần là đáng quý trọng mà chẳng chăm lo đến đời sống vật chất, như thế thì không thể có hạnh phúc toàn vẹn mà đó là biểu hiện của sự lười biếng.
– Cả 2 lối sống trên đều cực đoan đáng phê phán
– Tình trạng co người sống giả không giám và không được sống bằng cuộc sống chính mình. Đó là nguyên nhân đẩy con người đến chỗ tha hoá bởi vòng danh lợi.

3. Thái độ và hành động của bản thân.

– Đối với XH: phê phán lên án những lối sống cực đoan hoặc quá coi trọng vật chất, hoặc lười biếng không tưởng, phải đấu tranh chống lại lối sống giả tạo lừa đảo, những biểu hiện tiêu cực trong cuộc sống.
– Đối với bản thân: luôn đấu tranh với chính bản thân của mình để khắc phục những hạn chế tự hoàn thiện nhân cách của mình.

III. Kết Bài

– Được sống đúng mình, sống toàn vẹn với những giá trị vốn có của mình mới thực sự đáng quý.
– Sự sống thực sự có ý nghĩa khi con người sống tự nhiên hài hoà giữa thể xác và tâm hồn.
– Con người phải tự đấu tranh để hoàn thiện nhân cách và giá trị tinh thần cao quý.

Bài văn mẫu

Từ một câu chuyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành một vở kịch hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy màn, đoạn trích trong sách giáo khoa là đoạn cuối. Thông qua bi kịch Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống hàng giả, lưu manh, bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hướng tới sự hoàn thiện. nhân vật tốt.

Do phải sống trên thân xác anh hàng thịt nên hồn Trương Ba phải tuân theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Tâm hồn nhân hậu, trong sáng, ngay thẳng của Trương Ba năm xưa, nay phải sống cho vay mượn, lệ thuộc nên bị đầu độc bởi sự tầm thường, thô tục của xác thịt. Chìm trong nghịch cảnh của bi kịch không được sống là chính mình và bi kịch bị người thân chối bỏ – Trương Ba quyết định thắp nén nhang kêu oan hồn Đế Thích chết đi để trả lại sự trong sáng, vẹn toàn cho tâm hồn.

Phần đầu của màn đối thoại là cuộc tranh luận về quan niệm sống của Trương Ba và Đế Thích. Qua cuộc tranh luận ấy, tác giả đề cao quan điểm sống – “phải sống là chính mình”.

Mở đầu là màn độc thoại: “Anh đã thắng, cơ thể không phải là của em… Nhưng lẽ nào em chịu thua anh, đầu hàng anh và đánh mất chính mình?”. Đoạn độc thoại thể hiện cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt ở Trương Ba. Thực ra, cuộc đấu tranh ấy đã được tác giả Lưu Quang Vũ chuyển tải qua cuộc đối thoại giữa Trương Ba và hàng thịt. Đó là cuộc đấu tranh giữa thể xác và tâm hồn; giữa cái cao cả và cái thấp hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao thượng và thô tục; giữa dục vọng và dục vọng. Đó cũng là cuộc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách. Cuộc đấu tranh này tuy thắng về thể xác nhưng chính hồn Trương Ba không khuất phục, không khuất phục mà tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba.

Trương Ba bày tỏ nguyện vọng với Đế Thích: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.

Tiếp đó, Trương Ba nêu lên một nhu cầu chính đáng cũng như một quan điểm sống cao đẹp – sống phải là chính mình: “Bên trong không được, bên ngoài không được. Con muốn là con trọn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của bên trong và bên ngoài: “bên trong” là tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ và nhân cách cao đẹp của Trương Ba, tâm hồn là tinh hoa chi phối thể xác, đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác sống của anh hàng thịt Nhưng “bề ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, bản năng, nhu cầu tự nhiên, khát vọng bản năng. thỏa hiệp với nhu cầu bản năng Đây là nỗi dằn vặt, đau khổ và trăn trở của Trương Ba, hai người không thể dung hòa vì không thể có một tâm hồn cao thượng trong một thân xác tội lỗi.Tài liệu của ông Phan Danh Hiệu

Từ đó, Trương Ba lên tiếng đòi hỏi những nhu cầu chính đáng của chính mình: “Ta muốn là ta trọn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng sống hòa thuận. “Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và tâm hồn. Không thể có sự sống là “hồn và xác”. Cuộc sống không thuận theo tự nhiên, không thuận theo tự nhiên, sống không được là chính mình là một bi kịch nghiệt ngã.

Trước những yêu cầu của Trương Ba, Đế Thích cho rằng: “Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy vì“ trên trời dưới đất ”. Đế Thích chỉ ra rằng không chỉ Trương Ba sống bất nhất từ ​​trong ra ngoài, nhưng ai cũng như vậy, nên Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố làm hòn bi lăn ngược mà hãy biết chấp nhận, hãy biết thỏa hiệp, học cách chấp nhận. Đế Thích dẫn chứng mình và Ngọc Hoàng không được sống là chính mình: “Nhìn bề ngoài thì không thể sống theo suy nghĩ bên trong, nhưng Ngọc Hoàng cũng vậy, chính con người cũng có lúc phải nhào nặn. để xứng đáng với danh hiệu Ngọc Hoàng. ” Như vậy, theo Đế Thích, “không ai được sống là chính mình”. Tài liệu của ông Phan Danh Hiếu. Vì sống có nghĩa là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải phục tùng. Đây là một quan niệm sống sai lầm đáng bị lên án.

Trương Ba bắt đầu đổi giọng tố cáo Đế Thích: “Sống nhờ đồ đạc, của cải người khác là điều không nên, đằng này, thân mình cũng phải sống nhờ hàng thịt”. Trương Ba so sánh về đồ đạc, vật chất và bản thân. Việc mượn đồ đạc và của cải vật chất từ ​​người khác là điều không nên; sống nhờ, sống nhờ, sống ký sinh trên cơ thể người khác là một điều đáng xấu hổ đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: “Anh ấy chỉ nghĩ đơn giản là để cho mình sống thôi, còn sống thì không cần biết!”. Dòng chỉ trích Di Thích quan niệm sai lầm bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Thích Ca Mâu Ni, sự sống là sự tồn tại, không quan trọng nó tồn tại như thế nào. Đối với Trương Ba, sự sống không chỉ là sự tồn tại về mặt sinh học, mà còn là sự tồn tại có ý nghĩa.

Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu tranh của Trương Ba – đó là cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp. Cuộc đấu tranh này toát lên nhân cách cao thượng và đức hi sinh của Trương Ba.

Tiếp đó, Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: “Xác anh hàng thịt còn nguyên, ta sẽ trả lại cho anh. Cho hồn anh sống lại với thân xác này”. Nhưng Đế Thích đã từ chối vì Đế Thích cho rằng linh hồn quý giá của Trương Ba không thể thay thế được linh hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba cho rằng: “Người tầm thường, nhưng chân chính… sinh ra để ở với nhau”. Để khẳng định với lòng quyết tâm của mình, Trương Ba tỏ ra mạnh mẽ: “Nếu không cứu giúp, ta sẽ nhảy xuống sông, găm dao vào cổ thì hồn không còn, xác hàng thịt”. Ý chí quật cường của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và được “sống là chính mình” lúc này Trương Ba không còn con đường nào khác ngoài cái chết. Bởi chỉ khi chết đi, anh mới thực sự là chính mình, mới khôi phục được vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn. Đối với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất, nơi linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết là sống lại trong lòng những người yêu thương mình.

Lưu Quang Vũ đặt Trương Ba vào một tình huống kịch độc đáo. Cái chết của đứa con trai duy nhất của bà, Ti, khiến cuộc đối thoại có một bước ngoặt.

Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác Tí: “Sống trong xác chàng trai thì được”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến diện – cuộc sống là tồn tại. Thực chất của lối suy nghĩ này được bắt nguồn từ cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni. Các vị thần và nữ thần không bao giờ chết, vì vậy sống là để tận hưởng. Lối sống này ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ đó dẫn đến những sai lầm.

Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã”. Sự phân vân của Trương Ba cho thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều còn quý giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được sống. Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông hình dung thấy trước mắt là cuộc sống tương lai của mình trong cơ thể của một thằng bé lên mười: “Có khi tôi còn phải sang nhà chị Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào, khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên mười…”. Trương Ba thấy mọi sự vô lí nhất là khi ông nhìn thấy được sự cô đơn của bản thân khi: “Vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông khách ngồi ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”. Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba đó chính là tâm hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị” và cũng chính cái chết của cu Tị cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba trở nên mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích “Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”.

Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”. Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.

Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất tử trong những người yêu mến ông.

Sự tồn tại của con người bao gồm một bộ phận con người và một bộ phận con người. Phần phụ mang tính bản năng. Phận con người thuộc về nhân cách, là sự cao quý đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần con người đã tạo nên con người thật sự. Ở đây hai hình ảnh hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phận con và phận người. Một bên tượng trưng cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên thể hiện sự thô tục, thô tục. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh, không thể có một tâm hồn cao thượng trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, bên trong và bên ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất hoàn chỉnh, không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: Bên trong, bên ngoài ”.

Để sống thật với chính mình, mỗi chúng ta cần biết cách cân bằng giữa việc chăm sóc tâm hồn cũng như trân trọng và quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của cơ thể. Qua đó, Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một người chỉ biết tu bổ, chạy theo ham muốn vật chất mà không chăm lo đời sống tinh thần. Loại còn lại luôn coi thường giá trị vật chất, bỏ bê việc chăm sóc bản thân, chỉ mong giữ cho tâm hồn đẹp. Thông qua thể xác và tâm hồn, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng sống là chính mình mới là hạnh phúc đích thực của con người. Vì vậy, trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự thô tục và vượt qua nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của mình. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể là chính mình – là chính mình hoàn toàn.

Để làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh và tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện. Có chiều sâu triết học khách quan.

Exit mobile version