Site icon Lớp Văn Cô Thu

Phân tích truyện ngắn “Bà lái đò” – Nguyễn Công Hoan

Phân tích truyện ngắn "Bà lái đò" - Nguyễn Công Hoan

Phân tích truyện ngắn "Bà lái đò" - Nguyễn Công Hoan

BÀ LÁI ĐÒ

Chúng tôi tới một bờ sông và phải qua con sông khá rộng ấy. Chà, chúng tôi thở phào một hơi khoan khoái: Chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi trên thuyền. Một người đàn bà ngoại bốn mươi, ngồi cạnh một thằng bé chừng tám chín tuổi, hướng mặt ra sông, đang vót tre bằng con dao nhọn. Thấy tiếng động, người ấy quay nhìn chúng tôi và có ý hớt hải, thu xếp các thứ rồi một tay cầm dao, một tay dắt con, nhảy xuống thuyền. Bà ta lay nhổ vội vàng cái sào cắm chặt vào bùn, rồi đẩy mạnh chiếc thuyền nan. Con thuyền chổng mũi lên trời, vỗ sóng đành đạch, nhảy chồm ra xa. Nhưng không hiểu sao tự nhiên nó quay lại ghé vào bờ. Đồng chí Việt Nam muốn chừng hiểu ý, nói:

– Bà cho chúng tôi sang sông với chứ. Sáu người chở không nặng lắm đâu.

– Vâng, cháu ghé vào chỗ khô để các ông khỏi lấm giầy.

Chúng tôi xuống thuyền, ngồi thăng bằng thì thuyền quay mũi. Chúng tôi duỗi chân cho đỡ mỏi, rồi lấy thuốc lá ra hút. Chúng tôi nói chuyện với nhau về các khúc sông bên châu Âu. Gió hiu hiu lướt trên da chúng tôi mát rượi. Sóng phản ánh vàng, mặt nước chói như gương. Quá nửa bên này, yên lặng, thuyền tới chỗ chảy xiết. Chúng tôi phải vịn vào nhau để ngồi cho vững. Bỗng tự nhiên con thuyền chòng chành, đảo lộn đi, hắt thằng bé con xuống nước. Đồng thời chúng tôi nghe tiếng bùng bục: người đàn bà tay cầm con dao nhọn đang xỉa đâm nát cả phía lái. Nước ùa vào và trong khoảnh khắc, cả chúng tôi băng ra giữa dòng. Trước thế nguy, chúng tôi giữ bình tĩnh.

– Anh em! Phải cứu lấy đàn bà và trẻ con!

Lệnh đưa ra, chúng tôi hết sức. Chúng tôi chống nhau với sóng, với xoáy, để đuổi kịp những cái đầu lúc nhô lên, lúc thụt xuống, theo đà nước đỏ ngầu. Anh Bảo – Tên Việt Nam của đồng chí Đức – đã nhanh tay ôm được thằng bé và cõng nó vào bờ. Còn chúng tôi đuổi theo người mẹ. Nhưng hễ nắm được cánh tay, thì người đàn bà quái gở ấy lại giãy giụa, hình như muốn chạy trốn. Nhưng không thể. Chúng tôi phải cứu. Và sau hết, bà ta cũng được dìu vào bờ. Chúng tôi đặt hai mẹ con nằm trên cỏ, xúm lại chữa. Cả hai người đã nôn ra được nhiều nước và đã thở được đều. Chừng nửa giờ sau, bà lái đò mới mở đôi mắt mệt nhọc nhìn chúng tôi, thở dài, nhắm mắt lại. Biết rằng bà ta đã tỉnh, đồng chí Việt Nam hỏi:

– Tại làm sao bà nỡ xử với chúng tôi như thế?

– Họ là người Pháp, chúng tôi không chở cho giặc!

Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam mỉm cười:

– Các đồng chí này không phải là người Pháp mà người châu Âu, giúp Chính phủ ta đánh Pháp đấy bà!

Bà lái đò uể oải nhìn chúng tôi một lượt, rồi không hiểu bà ta có tin hay không, lại thấy bà ta nhắm mắt như trước.

– Thế nếu các đồng chí này là người Pháp, sao bà còn để xuống thuyền?

– Tôi cũng tính chạy, nhưng sau sực nghĩ ra là các ông có súng, không để các ông xuống cũng chết. Đằng nào cũng chết, thà tôi chết mà giết được tất cả có hơn không? Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam lắc đầu hồi hỏi:

– Nhà bà ở đâu? – Tôi không có nhà, chi có chiếc thuyền ấy. – Thế gia đình bà có những ai? Chúng tôi muốn vào thăm.

– Tôi góa, chỉ có một thằng bé.

Bà thở mắt ra nhìn con, rồi quờ tay sờ trán và ngực nó.

(Thuật theo lời một đồng chí Tiệp Khắc tháng 8-1948, (Trích Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan)

* Chú thích

Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977), sinh ra trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế ở Hưng Yên. Ông là một nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học. Một số tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn gồm Kép Tư Bền (1935), Đào kép mới (1937)…; Tiểu thuyết gồm Lá ngọc cành vàng (1935), Ông chủ (1935), Bước đường cùng (1938)… Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

I/ Mở bài

Nguyễn Công Hoan là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng tháng Tám, ông được biết đến với những truyện ngắn hiện thực mang giọng điệu châm biếm sâu cay. Sau năm 1945, cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của ông chuyển hướng mạnh mẽ sang ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và tinh thần yêu nước của nhân dân trong kháng chiến. Truyện ngắn “Bà lái đò”, sáng tác năm 1948, là một tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn này. Dưới hình thức một câu chuyện tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc về một con người vô danh mà giàu khí phách, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp thầm lặng của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.

II/ Thân bài

a) Tóm tắt tác phẩm

Một nhóm người nước ngoài đến Việt Nam công tác và phải qua một con sông rộng. Họ được một người phụ nữ trung niên chèo thuyền giúp qua sông. Khi thuyền ra đến giữa dòng, bất ngờ người đàn bà dùng dao đâm thủng thuyền, khiến tất cả rơi xuống nước. Sau một phen vật lộn giữa sóng nước để cứu người, họ đưa được cả bà lái đò và con trai bà vào bờ. Khi tỉnh lại, người phụ nữ giải thích rằng bà tưởng họ là lính Pháp nên đã liều mình phá thuyền để giết giặc, dù biết có thể sẽ chết. Khi biết những người này là đồng minh giúp Việt Nam chống Pháp, bà chỉ lặng im, mệt mỏi và vẫn không tỏ ra ân hận vì hành động của mình.

b) Nêu chủ đề và phân tích làm sáng tỏ chủ đề của tác phẩm

Truyện ngắn “Bà lái đò” khắc họa hình ảnh người phụ nữ nông dân bình thường nhưng mang tinh thần yêu nước mãnh liệt, sẵn sàng hy sinh bản thân vì độc lập dân tộc. Chủ đề tác phẩm chính là ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam – những con người tưởng như vô danh, nhỏ bé nhưng lại có tinh thần chiến đấu quả cảm và tư thế hiên ngang trước cái chết.
Hành động đâm thuyền của bà lái đò ban đầu khiến người đọc sửng sốt, tưởng là hành vi bạo động điên cuồng. Nhưng khi bà thốt lên: “Tôi không chở cho giặc!” thì tất cả trở nên sáng rõ: bà là người yêu nước, căm thù giặc sâu sắc đến mức dám hy sinh cả mạng sống của mình và đứa con trai nhỏ. Trong tâm niệm của bà, giặc là kẻ thù không đội trời chung – và ngay cả trong tình thế một mình đơn độc, bà vẫn nghĩ đến việc tiêu diệt kẻ thù bằng chính mạng sống của mình. Hành động ấy không phải kết quả của sự bồng bột, mà là kết tinh của lý tưởng: “Đằng nào cũng chết, thà tôi chết mà giết được tất cả có hơn không?” – một suy nghĩ giản đơn mà kiên cường, dũng cảm.
Ở bà lái đò hội tụ hai phẩm chất cao đẹp: bản năng người mẹ và tinh thần người chiến sĩ. Dẫu biết con mình cũng sẽ chết, nhưng bà không ngần ngại hành động – bởi lẽ, trong thời chiến, mọi người dân đều có thể trở thành chiến sĩ và dẫu phải hi sinh tất cả, họ cũng sẵn sàng bởi họ hiểu rằng nước mất thì nhà tan. Sẽ không thể có hạnh phúc ấm yên nếu như đất nước còn oằn mình dưới gót giày quân xân lược. Không có súng đạn, bà dùng con dao nhỏ. Không có quân phục, bà lấy chính thân xác mình làm vũ khí. Người phụ nữ ấy là hiện thân tiêu biểu cho vẻ đẹp thầm lặng và ý chí quật cường của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến.

c) Nêu những nét đặc sắc nghệ thuật và tác dụng của chúng

Truyện ngắn “Bà lái đò” gây ấn tượng mạnh bởi tình huống truyện độc đáo, bất ngờ: một người chèo thuyền cứu khách lại trở thành người “giết” họ, và cái kết khiến tất cả phải bàng hoàng, xúc động. Nghệ thuật xây dựng tình huống nghịch lý này không chỉ tạo nên kịch tính mà còn làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Ngoài ra, việc để một người nước ngoài – đồng chí Tiệp Khắc – làm người kể chuyện giúp cho cái nhìn về bà lái đò trở nên khách quan, tự nhiên và càng thêm kính phục. Giọng văn kể chậm rãi, không hoa mỹ nhưng chân thành, giản dị. Nhân vật bà lái đò không được miêu tả quá nhiều về ngoại hình hay cảm xúc, nhưng chính những hành động và lời nói ngắn gọn lại giúp khắc họa rõ nét tính cách và lý tưởng sống của nhân vật.

III/ Kết bài

“Bà lái đò” là một truyện ngắn dung dị mà giàu cảm xúc, khắc họa sinh động hình ảnh người phụ nữ Việt Nam giàu lòng yêu nước, gan góc, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm không chỉ có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà còn là biểu tượng về vẻ đẹp thầm lặng, cao cả của nhân dân trong chiến tranh. Đọc truyện, ta thêm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc và tự nhắc mình phải sống có lý tưởng, dũng cảm và biết hy sinh vì điều đúng đắn, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Exit mobile version