Site icon Lớp Văn Cô Thu

Phân tích truyện “Giàn bầu trước ngõ” của Nguyễn Ngọc Tư

Phân tích truyện "Giàn bầu trước ngõ" của Nguyễn Ngọc Tư

Phân tích truyện "Giàn bầu trước ngõ" của Nguyễn Ngọc Tư

Giàn bầu trước ngõ

Tôi không thích khi cưỡi xe vào tận thềm nhà lại phải rạp mình dưới giàn bầu ấy. Chị và mẹ tôi lại ngại tóc rối. Cha tôi khó chịu khi phải dắt quan khách len lỏi bên mấy trái bầu để vào căn nhà sang trọng. Nhưng không ai dám chặt phá giàn bầu bởi nó của bà nội tôi. Bà trông nó từ hồi trong quê ra. Thoạt đầu, chị em chúng tôi thích lắm, chiều chiều lon ton xách thùng ra tưới. Chúng tôi tưới như tưới hoa. Nội cười- “Bay tưới như thằn lằn đái”. Rồi bà đổ nước soàn soạt, chúng tôi nghe theo, đổ nước soàn soạt. Dây bầu lớn. Trong cái nách mập mạp lú ra mấy trái con xanh xanh. Trái bằng đầu đũa, bằng ngón tay, cườm tay rồi to to mãi. Bữa canh đầu tiên cả nhà háo hức, nuốt tuồn tuột từng miếng bầu trong veo, ngọt lịm. Ba gật gật khen ngon, day sang trách mẹ “sao trước giờ không mua bầu mà nấu ăn bà ta?”
Một lần, hai lần rồi ba lần, chúng tôi ngán tận cổ. Mà, chết thật, nội tôi cứ trồng mãi, trồng mãi, giàn bầu ngày càng rộng ra choán hết khoảng sân kiểng của cha xanh rầm rì. Trái già đến vàng khô, không ai ăn, bà mang cho hàng xóm. Hàng xóm chúng tôi cũng giàu có, họ chê nhưng cũng nhận bởi họ nể cha tôi. Nhiều quá, sớm sớm, chiều chiều, nội mang ra ngõ, này cho chị xôi chè một quả: “ăn lấy thảo”, này cho bác xích lo trái bầu “về nấu cho sắp nhỏ”. Rồi bà lại trồng. Chị Lan nhăn nhó:
– Nội ơi, trồng chi nhiều vậy?
Bà nội cười, buồn buồn.
– Nội làm lặt vặt quen rồi. Trồng trọt để đỡ nhớ quê.
Ôi cái quê của nội. Cái quê heo hút muốn về phải đỉ mấy chặng xe, tàu. Cái quê mà mỗi lần về, vào cuối mùa mưa, đất bùn quến vào móng chân tôi, ém chặt thối đen. Cái quê đèn cầy, đèn cóc, đêm nhóc nhen kêu buồn nẫu ruột, mùa lũ, lơ phơ chỉ thấy mấy nóc nhà. Ba tôi nói “làm người đừng suy nghĩ hẹp hòi, đừng tưởng nơi mình sinh ra, nơi có mồ mả ông cha là quê hương, khắp đất nước này chỗ nào cũng là quê cả”. Cha tôi nói đúng và ông rước bà nội lên thành phố. Trước, ông chủ tịch đến nhà chơi, uống bia khà khà rồi nhắc: “- Lâu quá không gặp má, hôm nào chú mầy rước má lên, tội nghiệp bà già…” Cha bưng bát hương ông đi trước, bà nội lúi húi bưng bát hương chú Út theo sau. Ở nhà tôi, công việc nhàn đến mức bà thơ thẩn vào rồi lại thơ thẩn ra. Nhà cao cửa rộng, khéo đi, cả ngày chẳng ai gặp mặt ai. Chị tôi đi học cả ngày, mẹ tôi đến sở. Bà ra cửa trước, tôi vào cửa sau, bà lên lầu, cha đi xuống, gặp nhau ở lối ngõ cầu thang, nội ngó cha, nhắc “Lúc này bay bận rộn, đến không không ăn cơm ở nhà, khéo ngã bệnh nghen con”. Cha cười “má khỏi lo”. Rồi mỗi người mỗi ngả. Bà năng xuống bếp, quấn quít ở đấy. Chị bếp khoe:
– Bác ơi, con làm bánh tổ nè, bác cháu mình cùng ăn nghen.
Bà tôi gật gù khen ngon. Tôi tò mò nhón lấy một miếng ăn thử, nó ngòn ngọt dai dai. Thứ bánh nhà quê này xem ra có khác với Sandwich, chocolate. Bà làm nhiều thứ bánh lắm, không kể hết được, nào là bánh ngọt, bánh ú….toàn là bánh nhà quê, mà hình như chỉ tôi ăn, ba mẹ, chị Lan đều tránh xa xa hỏi ” Bánh đó ăn ra làm sao? ” Tôi khoe “Sáng này nội làm bánh khọt ngọt ngon lắm.”Chị Lan tròn mắt” bánh gì tên ngộ vậy?
Ừ, ngộ, ngộ chứ. Nội mua về cái lò đất khói tù mù. Cha tôi chê. Nội mang ra ngoài hè để đỡ ám khói tường nhà. Bà bảo: “Làm bánh khọt thì phải đốt bằng lò đất, nó mới ngon”. Bà đốt lửa, mắt già tèm nhem nước mắt mùi khói thơm thơm, cay nồng. Mùa này nhiều trái bầu khô, nội hái vào móc ruột ra, lấy cái vỏ mằn mì gọt. Lâu lâu nội đưa lên nhìn, nheo nheo mắt. Tôi hỏi, nội gọt gì. Nội cười, đưa cho tôi mảnh vỏ dầy hình trái tim nỏ xíu.
– Mặt dây chuyền cho tụi nhỏ đeo.
Tôi không nén được xuỳ một tiếng.
– Thời này ai đeo mấy thứ này, nội làm chỉ mất công.
Trong đôi mắt đùng đục của bà, tôi thấy có một nỗi buồn sâu kín. Con chị bếp dưới quê lên, bà gói dúi vào tay nó mấy mảnh bầu. Con nhỏ hớn hở, vui thiệt là vui. Cũng niềm vui ấy, con bé bán vé số lỏn lẻn cười “Bà đẽo đẹp ghê ha”. Hôm sau tôi thấy nó xúng xính xỏ cọng chỉ vào, đeo tòn ten trước cổ lạ lắm. Hình như tôi ngắm vàng ròng, cẩm thạch quen rồi. Tôi xin, bà móm mém cười “Bà để dành cho bay cái đẹp nhất nè”.
Tôi gói trái tim xíu xíu kia bỏ vào ngăn tủ, chị Lan trông thấy giành “cho chị đi”. Tôi lắc đầu. Chị giận bảo “chị cóc cần, ở chợ bán hàng khối”. Nhưng rồi chị quay về nài nỉ tôi . Lần đầu tiền, tôi thấy món quà của nội dễ thường đến thế.
Giàn bầu vẫn trước ngõ. Cha tôi đã thôi khó chịu, hay bực dọc riết rồi chai đi, chẳng biết bực là gì nữa. Nhưng khách đến nhà, ai cũng khen “anh ba có giàn bầu đẹp thiệt”. Họ săm soi, từng mảng lá cuống hoa. Khách nước ngoài còn kề má bên trái bầu xanh lún phún lông tơ mà chụp hình kỷ niệm. Mấy anh chị sinh viên đạp xe ngang dừng lại nhìn đau dấu qua rào rồi kháo nhau “Nhớ nhà quá, tụi mày ơi”. Chiều chiều, tôi ra giàn bầu xanh rượi, mơ màng nghe con ong vò vẽ trên từng phiến lá, chớp mắt nhìn chim sâu lích rích chuyển cành, chuồn chuồn rồi bướm rồi hoa thi nhau nở chấp chới. Bà nội tôi yếu hơn trước, mùa mưa bắt đầu lướt sướt đi qua. Ông chủ tịch đến chơi nhà, ôm chầm lấy nội, lắc lắc “lúc này má khoẻ không?” Nội cười xoà mà nghe nghẹn nghẹn “khoẻ, má khỏe”. Cha tôi sai chị bếp mang rượu thịt ra ông chủ tịch khóa tay:
– Thôi, chú bảo chị ấy nấu canh bầu ăn.
Cha hẩng mặt. Chị bếp lúi húi gọt bầu, mùi nước canh xông vào mũi thơm lừng. Ông chủ tịch day qua bà nội khoe “lâu quá không ăn canh bầu rồi, má!” nội cười: “má nhớ bay thích nhất là ăn bầu nấu tép bạc”. Cha dôi dợm mình “để con đi mua tôm”. Ông chủ tịch ấn vai, bảo “thôi, chú cứ ngồì xuống, anh thèm lắm rồi, không chờ chú được đâu”. Hôm ấy cả nhà tôi ăn lại bát canh ngày xưa, nghe ngọt lìm lịm lưỡi. Chị bếp ngó nội, khoái chí cười đầy hàm ý. Hình như nội tôi vui.
Giàn bầu thưa hẳn đi. Cái giống lạ thật. Nắng bao lâu vẫn xanh tốt, mới mưa dầm lại héo dây. Tôi đập vỡ trái bầu khô, lấy hạt ra ươm. Mùa mưa dữ dội, nội tôi bệnh, bà bị chứng tai biến não. Nội lơ ngơ, đã cười đã khóc thì không sao dừng được, tay run rẩy cầm ca nước, bát cơm cũng khó. Trời đổ mưa, sấm giật ầm ầm, nội thều thào nhắc:
– Sắp nhỏ đừng hứng nước mưa đầu mùa, hổng tốt. Chà, mưa vầy ngập đồng rồi, ngâm giống gieo mạ đi thôi.
Bà nội lẩn thơ lẩn thẩn rồi, mà hình như bà chỉ nhớ về quá khứ. Nội hay ra ngoài hiên, chăm chăm nhìn giàn bầu đang run rẩy trong gió. Bà ngồi đấy lặng lẽ, thẫn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng ếch kêu. Tay bà lạnh ngắt, tôi chạy vào phòng lấy lọ dầu thoa, vẫn thấy mảnh bầu trái tim màu vàng trong ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như của mái nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều. Giàn bầu vẫn trước ngõ, có kẻ đi qua kêu lên, “tôi nhớ nhà”. Cha tôi bảo: “có thể bứt người ta ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi chúng trái tim con người.” Và cha tôi lại nói đúng.

– Nguyễn Ngọc Tư

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút gắn liền với hình ảnh nông thôn Nam Bộ, với những câu chuyện thấm đẫm tình người, tình quê.

– Giới thiệu truyện ngắn Giàn bầu trước ngõ – một câu chuyện dung dị nhưng đầy ý nghĩa về tình cảm gia đình, nỗi nhớ quê hương và sự gắn bó với cội nguồn.

II. Thân bài

1. Tình huống truyện

– Giàn bầu là hình ảnh xuất hiện xuyên suốt, ban đầu gây khó chịu cho các thành viên trong gia đình nhưng dần trở thành biểu tượng của tình cảm gia đình, nỗi nhớ quê hương.

– Nhân vật bà nội từ quê lên sống với con cháu, mang theo thói quen trồng bầu để vơi bớt nỗi nhớ quê.

2. Hình tượng nhân vật bà nội

– Người phụ nữ gắn bó với quê hương:

+ Mang theo giàn bầu như một phần của quê hương.

+ Làm bánh quê, đẽo vỏ bầu thành mặt dây chuyền cho trẻ nhỏ.

+ Luôn đau đáu với những kỷ niệm, nỗi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn.

– Người phụ nữ giàu tình thương:

+ Chăm sóc giàn bầu để cho cả nhà có thức ăn.

+ San sẻ bầu cho hàng xóm, cho người nghèo.

+ Quan tâm đến con cháu, lo lắng cho sức khỏe của con trai.

– Nỗi cô đơn của người già:

+ Cảm giác lạc lõng trong ngôi nhà hiện đại, rộng rãi nhưng xa cách tình cảm.

+ Chỉ tìm được niềm vui trong những điều nhỏ bé như trồng bầu, làm bánh.

+ Khi bệnh, chỉ còn ký ức về quê hương, những hình ảnh của ruộng đồng, mùa màng.

3. Hình ảnh giàn bầu – biểu tượng của quê hương và ký ức

– Gắn với ký ức tuổi thơ của nhân vật “tôi”:

+ Ban đầu, nhân vật “tôi” cùng chị rất thích giàn bầu, tưới nước mỗi ngày.

+ Sau đó chán ghét vì ăn bầu quá nhiều, thấy phiền phức.

+ Dần dần hiểu ra giá trị của giàn bầu khi nó là biểu tượng của tình cảm bà nội.

– Giàn bầu kết nối con người với quê hương:

+ Khi khách đến nhà, đặc biệt là những người xa quê, họ nhìn giàn bầu mà “nhớ nhà quá”.

+ Ông chủ tịch khi ăn bát canh bầu cũng nhớ về những ngày xưa.

– Giàn bầu là biểu tượng của tình cảm gia đình:

+ Là sợi dây gắn kết giữa bà nội và con cháu.

+ Khi bà nội yếu đi, giàn bầu cũng thưa dần như một dấu hiệu của sự chia xa.

4. Giá trị nhân văn của tác phẩm

– Ca ngợi tình cảm gia đình, đặc biệt là tình bà cháu.

– Gợi lên ý nghĩa của quê hương trong tâm hồn con người.

– Phản ánh sự thay đổi của cuộc sống hiện đại và nỗi cô đơn của người già khi xa quê.

III. Kết bài

– Khẳng định ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm: một câu chuyện giản dị nhưng chứa đựng tình cảm ấm áp và giá trị nhân văn sâu sắc.

– Cảm nhận cá nhân về truyện: gợi lên nhiều suy nghĩ về tình thân, sự gắn bó với cội nguồn và trân trọng những điều bình dị trong cuộc sống.

Bài văn tham khảo

Xung quanh chúng ta luôn có những điều giản dị mà gần gũi của quê nhà, nhưng với tình cảnh xã hội ngày càng phát triển, con người cũng tham gia vào cuộc chạy đua cùng với công nghệ, liệu rằng giá trị của một cuộc sống yên bình có được giữ vững. Để bày tỏ cảm nhận của mình về vấn đề ấy, không ít nhà văn đã viết nên những tác phẩm đề cao giá trị của cuộc sống đời thường. Một trong số đó là tác phẩm “Giàn bầu trước ngõ” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư là một tác phẩm hay như thế. Chủ đề ấy được thể hiện qua nghệ thuật kể chuyện giản dị, đặc sắc mà lôi cuốn.

Câu chuyện kể về một gia đình với giàn bầu xanh tốt được trồng bởi bà nội, bao phủ khắp sân nhà. Giàn bầu vừa mang lại cho gia đình những niềm vui đơn giản nhưng lâu dần cũng mang đến những e ngại do giàn bầu phát triển quá tốt, quả ra nhiều vừa ăn không hết vừa cản trở lối đi. Ngoài giàn bầu thì câu chuyện còn kể về người bà, bà nội được người bố đón từ quê lên sống cùng gia đình. Qua lời kể của nhân vật “Tôi” có thể thấy hình ảnh bà luôn có một nỗi buồn và nhung nhớ về quê nhà. Xuyên suốt tác phẩm còn là những cảm xúc hoài niệm, những suy nghĩ về quê hương.

“Giàn bầu trước ngõ” mở ra một bức tranh sống động về cuộc sống nông thôn miền Tây Nam Bộ, nơi mà hình ảnh giàn bầu không chỉ là một chi tiết của cảnh vật mà còn là biểu tượng của đời sống hàng ngày. Với những thành viên trong gia đình “tôi”, đôi lúc giàn bầu trở nên thật vướng víu, khó chịu Tôi không thích khi cưỡi xe vào tận thềm nhà lại phải rạp mình dưới giàn bầu ấy. Chị và mẹ tôi lại ngại tóc rối. Cha tôi khó chịu khi phải dắt quan khách len lỏi bên mấy trái bầu để vào căn nhà sang trọng. Nhưng với mỗi vị khách khi đi qua giàn bầu ấy, nỗ nhớ nhà, nhớ quê hương như được gợi lên từ hình ảnh quen thuộc của làng quê “Khách đến nhà, ai cũng khen: “Anh Ba có giàn bầu đẹp thiệt”. Họ săm soi, từng mảng lá cuống hoa. Khách nước ngoài còn kề má bên trái bầu xanh lún phún lông tơ mà chụp hình kỷ niệm. Mấy anh chị sinh viên đạp xe ngang dừng lại nhìn đau đáu qua rào rồi kháo nhau “Nhớ nhà quá, tụi mày ơi”. Giàn bầu, với vẻ đẹp giản dị và gần gũi, không chỉ góp phần làm phong phú thêm bức tranh thiên nhiên mà còn gợi nhắc về những ký ức và cảm xúc sâu lắng của nhân vật. Cảnh vật xung quanh, bao gồm giàn bầu và các yếu tố thiên nhiên khác, được miêu tả tỉ mỉ, giúp người đọc cảm nhận được sự kết nối mật thiết giữa con người và môi trường sống của họ. Con người có thể rời xa quê hương vì nhiều lí do khác nhau (làm ăn, sinh sống, học tập) nhưng họ không thể tách quê hương ra khỏi con người bởi quê hương là nơi chôn nhau, cắt rốn của mỗi người, là nơi gắn bó máu thịt, là nơi lưu giữ tâm tình, cảm xúc luôn hiện diện trong tâm tư, nỗi nhớ của con người. Tất cả những hình ảnh của quê hương, những tháng ngày gắn bó sẽ trở thành những hồi ức sống mãi trong lòng mỗi người.

Chủ đề ấy còn được khắc họa qua hình ảnh người bà rời xa quê nhưng luôn gắn bó với quê hương. Ngoài giàn bầu, câu chuyện còn kể về người bà, người đã được bố của nhân vật “Tôi” đón từ quê lên sống cùng gia đình. Qua lời kể của nhân vật “Tôi”, hình ảnh người bà hiện lên với nỗi buồn và sự nhung nhớ về quê nhà. Bà trồng giàn bầu trước ngõ cho đỡ nhớ quê. Những quả bầu được nấu với món canh dân dã, đậm chất quê được mọi người đón nhận, thích thú: “Bữa canh đầu tiên cả nhà háo hức, nuốt tuồn tuột từng miếng bầu trong veo, ngọt lịm” nhưng rồi ăn mãi cũng chán “Một lần, hai lần rồi ba lần, chúng tôi ngán tận cổ”. Dù biết mọi người không thích nhưng bà vẫn trồng để cho vơi nỗi nhớ nhà, nhớ về vùng quê yên bình giữa phố xá ồn ào náo nhiệt “nội tôi cứ trồng mãi, trồng mãi, giàn bầu ngày càng rộng ra choán hết khoảng sân kiểng của cha xanh rầm … Nội ơi, trồng chi nhiều vậy?Bà nội cười, buồn buồn. Nội làm lặt vặt quen rồi. Trồng trọt để đỡ nhớ quê”. Nỗi lòng về quê hương qua những lời và hành động, giúp độc giả cảm nhận được tâm trạng sâu lắng. Giữa nhịp sống hiện đại, tình yêu quê hương trong truyện giúp khơi gợi những giá trị truyền thống và ý nghĩa sâu sắc về nơi gốc tổ.

Nỗi nhớ quê nhà còn được thể hiện qua việc bà làm các món ăn quê nhà dân dã, qua việc bà làm những món đồ chơi từ quả bầu khô “Bà làm nhiều thứ bánh lắm, không kể hết được, nào là bánh ngọt, bánh ú…toàn là bánh nhà quê. Tôi hỏi, nội gọt gì. Nội cười, đưa cho tôi mảnh vỏ dầy hình trái tim nhỏ xíu”. Niềm vui của bà là khi trao tặng những món đồ chơi làm từ vỏ trái bầu được trẻ con đón nhận “ Con nhỏ hớn hở, vui thiệt là vui. Cũng niềm vui ấy, con bé bán vé số lỏn lẻn cười “Bà đẽo đẹp ghê ha” hay là khi ông chủ tịch tới nhà chỉ thích ăn món canh bầu của bà trồng trước ngõ.” Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo xây dựng hình ảnh người bà như một biểu tượng của tình yêu thương và sự hy sinh. Từ cách diễn đạt, chúng ta nhìn thấy người bà như một ngọn gió mát lành trong căn nhà bề thế của tác giả. Xuyên suốt tác phẩm là những cảm xúc hoài niệm, những suy nghĩ về quê hương. Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo xây dựng hình ảnh người bà như một biểu tượng của tình yêu thương và sự hy sinh. Qua từng câu chữ, ta cảm nhận được niềm vui và niềm tự hào trong giọng điệu của người bà khi bà nói về các thành tựu của con trai và mong muốn cho con cháu mình có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tác phẩm còn khám phá sự đối lập giữa cũ và mới thông qua hình ảnh giàn bầu. Trong khi cuộc sống nông thôn đang dần thay đổi với sự hiện đại hóa, giàn bầu trước ngõ trở thành biểu tượng của một thời kỳ cũ, của những ngày tháng giản dị và gần gũi với thiên nhiên. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư khéo léo sử dụng hình ảnh này để thể hiện những mất mát và sự thay đổi mà sự hiện đại hóa mang lại. Cảnh vật và những thói quen cũ đang dần nhường chỗ cho cuộc sống mới, nhưng những ký ức và giá trị của quá khứ vẫn tồn tại và làm phong phú thêm đời sống hiện tại. Những hình ảnh về giàn bầu, những buổi chiều ngồi dưới giàn bầu, và những cuộc trò chuyện diễn ra dưới tán bầu đều thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc và sự lưu luyến đối với những giá trị truyền thống. Nhà văn sử dụng hình ảnh này để nhấn mạnh rằng, dù thời gian trôi qua và xã hội thay đổi, tình yêu và sự kết nối với quê hương vẫn luôn hiện hữu trong tâm hồn mỗi người.

Bằng những đoạn văn tinh tế,tác giả đã tường thuật chi tiết về sự quan tâm và hy sinh của người bà đối với gia đình. Qua từng câu chữ, ta cảm nhận được niềm vui và niềm tự hào trong giọng điệu của người bà khi nói về các thành tựu của con trai và mong muốn cho con cháu mình có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tác phẩm được viết bằng ngôi kể thứ nhất, dưới góc nhìn của nhân vật “Tôi”- một người con trong gia đình, người đọc có thể hình dung được cuộc sống thường nhật của gia đình trong câu chuyện. Hình ảnh giàn bầu xanh ngắt, vươn mình phủ kín sân nhà được miêu tả rất chi tiết bằng những quan sát tỉ mỉ. Diễn biến tâm lí của các nhân vật cũng được thể hiện rõ qua những cảm nhận và quan sát của nhân vật “Tôi”. Từng sự kiện được thuật lại một cái có trình tự, sắp xếp khiến mạch truyện trở nên hợp lý, đồng thời qua ngôi kể điểm nhìn này tác giả cũng bộc lộ rõ ràng cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật “Tôi”, đó là một phần yếu tố tác động và dẫn dắt người đọc theo mạch cảm xúc của câu chuyện.

Nghệ thuật kể chuyện trong “Giàn Bầu Trước Ngõ” được đánh giá cao vì sự tinh tế và sắc bén của tác giả trong việc tái hiện cuộc sống thực tế và tạo ra những nhân vật sống động. Tác giả đã sử dụng ngôn từ đơn giản, gần gũi và hình ảnh sinh động để tạo nên một không gian văn hóa đậm đà và chân thực.Tác giả không sử dụng những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ hay những tình tiết gay cấn để thu hút sự chú ý của độc giả, mà thay vào đó, ông tập trung vào việc xây dựng những tình huống thường ngày, những cuộc sống bình dị của nhân vật. Nhờ vậy, câu chuyện trở nên gần gũi và dễ tiếp cận hơn, giúp độc giả có thể đồng cảm và hiểu rõ hơn về nhân vật và cuộc sống của họ.

Ngoài ra, nghệ thuật kể chuyện trong “Giàn Bầu Trước Ngõ” còn được đánh giá cao vì khả năng của tác giả trong việc xây dựng nhân vật phức tạp và đa chiều. Nhân vật trong tác phẩm không chỉ đơn thuần là những cá nhân, mà họ còn đại diện cho những tầng lớp xã hội và mang trong mình những nỗi đau, hy vọng và khát vọng của con người. Tác giả đã thành công trong việc khắc họa sự phức tạp và đa dạng của con người, từ đó tạo nên một bức tranh xã hội đa sắc màu.

Bằng cốt truyện đơn giản, lối kể nhẹ nhàng, lôi cuốn truyện ngắn “Giàn bầu trước ngõ” của Nguyễn Ngọc Tư được đánh giá cao vì sự tinh tế và sắc bén trong việc tái hiện cuộc sống thực tế, hiện đại và những thông điệp giá trị về gìn giữ nét đẹp văn hóa của quê hương. Chính điều đó khiến cho tác phẩm để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Đọc truyện của NNT ta thêm yêu quý, trân trọng những vẻ đẹp, giá trị văn hóa của quê hương…

Sưu tầm

Exit mobile version