Site icon Lớp Văn Cô Thu

Phân tích đoạn trích “Khắc dấu mạn thuyền” của nhà văn Bảo Ninh

Phân tích đoạn trích Khắc dấu mạn thuyền của nhà văn Bảo Ninh

Phân tích đoạn trích Khắc dấu mạn thuyền của nhà văn Bảo Ninh

Đề:  Đọc đoạn trích sau:

Đời tôi, đi đây đó đã nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp được thấy Hà Nội. Chỉ một lần thuở bé, rồi một lần hồi chiến tranh, và mấy năm sau này thêm đôi lần nữa. Thành thử, ở Hà Nội, ngoài hồ Hoàn Kiếm với cầu Long Biên, tôi chỉ đại khái biết một ngôi nhà là nhà ga Hàng Cỏ và một con đường là đường xe điện. Nhưng, mặc dù như vậy, mỗi khi nhắm mắt lại nhìn sâu vào những nẻo đường của ký ức, bao giờ tôi cũng thấy hiện lên, tuy rất đỗi mơ hồ, bóng dáng của Hà Nội phố xá. Cái thành phố sâu thẳm, xa lạ, chẳng chút thân thuộc ấy, từ lâu lắm rồi đã lẳng lặng ăn vào đời tôi như là một trong những miền đất thân yêu nhất, dẫu rằng đấy là một tình thân yêu tưởng như không đâu, một duyên nợ hầu như vô cớ. Không hẳn là một nỗi niềm mà chỉ là bâng quơ một cảm giác, không thành một câu chuyện mà chỉ như là một nốt sầu còn vương lại của thời trai trẻ chiến tranh, một thời tuổi trẻ đã hoàn toàn mai một nhưng dư âm vọng suốt đời. Như tiếng mưa rơi. Như tiếng gió lùa. Như tiếng lá rụng. Mà không bao giờ quên.

Từ bấy tới nay, thời gian mất đi đã hai chục năm tròn. Hà Nội thuở đó với Hà Nội bây giờ có lẽ đã như là một trời một vực.

Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, tôi lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư lệnh đang đóng ở rìa thủ đô. Khi chúng tôi ra tới nơi, thành phố đang ngất trời bom đạn. Đây thực sự là cuộc đụng đầu sống mái, một trận quyết chiến vì lẽ mất còn. Giữa huống cảnh chung nước sôi lửa bỏng như thế, chẳng dám màng gì một chuyến về quê, tôi chỉ xin được rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm. Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình, để có thể nhận được ngay hồi âm mang ngược vào đơn vị cho lính ta sướng. Lựa ngày Nô-en, cấp trên thuận cho tranh thủ. Hạn đến 0 giờ phải trở về trình diện.

Tôi vào thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.

Mặc dù không biết phố nào vào với phố nào, lại ôm trong mình những chín lá thư, nhưng thoạt đầu tôi nghĩ không việc gì phải lo. Chỉ cần hỏi tới một địa chỉ, rồi từ đấy lần lượt nhờ người ở địa chỉ trước đưa mình đến địa chỉ sau. Không dè, rốt cuộc, cả chín lá thư tôi đều phải lùa vào phòng qua khe cửa. Ngày hôm ấy, dường như cả Hà Nội đã khoá trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.

Xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Phố dài vắng ngắt ngâm mình trong mưa, tù mù những vùng đèn đường. Tôi hỏi được về Vọng. Một anh dân phòng diện ủng, vận áo tơi bạt, tận tình dẫn tôi đi một đoạn khá xa đường. Đến ngã ba nọ, trước khi chia tay, anh chỉ xuống cặp ray đường tầu điện chạy sát vỉa hè và bảo tôi cứ bám theo đó mà đi là đến.

Sụp mũ cối xuống, dựng cổ áo lên, tôi lần sâu vào trong màn mưa phùn mờ mỏng dưới trời đêm lạnh buốt. Hai vệt ray loáng ướt, chẳng khác nào một lối mòn độc đạo xuyên qua rừng rậm nhà cửa tối đen. Thành phố chiến tranh như bên bờ vực, hun hút hoang vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, tê dại. Thăm thẳm nối nhau những chặng đường khuya không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành, không bóng một hàng quán. Hơi thở lạnh ngắt của đêm mưa ngấm vào tận cái dạ dày tôi trống rỗng. Các khớp xương cóng nhức cứng đơ như đang rời cả ra và rơi rụng. Cơn sốt âm ỉ từ chiến trường dâng lên dọc sống lưng, tôi sởn gai ốc, và không ngớt rùng mình. Đầu óc chậm chạp chung chiêng, đầu gối những muốn khuỵu xuống. Đi chưa được mấy đường, tôi đã bắt đầu đếm bước. Màn đêm ướt át như đông lại. Không nhìn thấy gì trước mắt, suýt nữa thì tôi đã xô người tới va mặt vào một cái đầu tầu điện đen ngòm đậu chết cứng giữa lòng đường.

Chuệnh choạng, tôi rẽ lên vỉa hè, rồi lảo đảo tấp vào dưới mái hiên một ngôi nhà. Răng va lập cập trong miệng, tôi tựa lưng vào cánh cửa đóng chặt, rồi từ từ trượt người xuống, ngồi phệt lên cái bậc tam cấp ướt đẫm hơi mưa và lạnh như một cây nước đá. Rét mướt buốt tim, tôi rên hừ hừ và rồi cũng không rên nổi nữa. Cũng không sao ghìm lại được cơn run, cứ run bắn lên, run cầm cập. Thân nhiệt của mình lúc này có lẽ chỉ còn bằng với người đang ngắc ngoải, cái đầu đã tê cóng của tôi lờ đờ nghĩ, không khéo mà khốn đến nơi rồi, không khéo mà là một cơn ác tính. Những người bị sốt rét ác tính nằm chết trên võng giữa rừng sâu, còn mình thì chết ngồi, chắc thế, và sẽ hoá thành tảng đá co ro trước cửa nhà người ta.

Trên đầu tôi, mái tôn rách nát run bần bật. Dưới vẫn mưa gió. Gió phả mưa vào tận thềm. Đã ướt lại ướt thêm một lượt nữa, tôi thở hắt, mặt mày xây xầm. Biết là cần phải dốc toàn lực bình sinh mà đứng dậy và bước đi, song hết rồi, nghị lực đã tê bại. Sinh lực xuống nhanh như mực nước trong một cái bình bị đập vỡ đáy, sự sống trong tôi xoay tròn một vòng và từ từ, lặng lẽ lật nghiêng. Đúng khi đó, sau lưng tôi, cửa kẹt mở. Tôi nghe thấy nhưng mà không ý thức được tiếng động ấy. Cơn choáng ngất gần như là một nỗi yếu mềm, một sự buông lơi, như thể một tiếng thở phào, nhẹ nhàng ru tôi ra khỏi tôi…

(Trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh)

Viết bài văn nghị luận phân tích và đánh giá nội dung đoạn trích trên.

I – Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

– Dẫn dắt và nêu vấn đề cần bàn luận

II – Thân bài

* Tóm tắt đoạn trích.

Truyện kể về nhân vật tôi , anh đã đi đây đi đó rất nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp thấy Hà Nội. Có một chuyến đi khiến anh nhớ mãi kí ức về Hà Nội . Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, anh đưa cán bộ ra thủ đô công tác, tiện anh vào thành phố chuyển mấy bức thư đồng đội anh gửi về cho tay gia đình. Tuy không biết đường đi, lang thang dưới mưa chiều, anh chuyển xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Cái lạnh buốt của mùa đông với cơn mưa phùn bất chợt khiến cơn sốt của anh trở lại, anh ngất đi.

* Phân tích, đánh giá nội dung đoạn trích

* Bức tranh Hà Nội

– Thời gian: Một chiều đông.

– Không gian: Trời Hà Nội mưa phùn, đường xá vắng lặng

+ “Thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.”

+ “Hà Nội im ắng, vắng lặng đến vậy, dường như cả Hà Nội đã khóa trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.”

→ Khung cảnh gợi sự buồn, cô đơn, con người vội vã, gấp gáp

* Hình ảnh người lính

– Hoàn cảnh:

+ Là người lính ở mặt trận Quảng Trị, nhận nhiệm vụ lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư lệnh đang đóng ở rìa thủ đô.

+ Tuy đi đây đi đó nhiều, nhưng anh lính rất hiếm khi tới Hà Nội.

+ Nhận nhiệm vụ đi đưa thư, trên đường đi thì trời mưa phùn, đêm lạnh buốt → Anh lính bị ốm và rồi thiếp đi trên hè phố.

– Anh là người lính nhiệt tình, biết hy sinh lợi ích cá nhân vì đồng đội

+ Có cơ hội về Hà Nội nhưng anh không về thăm quê, chỉ xin được “rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm”.

+ Anh muốn trao tận tay thư cho gia đình đồng đội của mình “ Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình để có thể nhận được ngay thư hồi âm mang ngược vào đơn vị cho linh ta sướng”.

+ Dù không biết đường đi Hà Nội, cầm trên tay chín lá thư, nhưng nhờ sự nhiệt tình, anh không lo nghĩ nhiều, ung dung, vui vẻ bước đi.

+ Anh đội mưa, chịu cái rét lạnh buốt của mùa đông để đưa thư. Cuối cùng anh bị sốt, ngất ngay trên đường đi.

* Nhận xét , đánh giá về nghệ thuật của đoạn trích

– Điểm nhìn trần thuật mang tính chân thực, gần gũi.

– Đặt nhân vật vào tình huống truyện éo le bộc lộ rõ cá tính và phẩm chất của nhân vậy đồng thời thể hiện sự khéo léo của tác giả.

– Lối quan sát tinh tế, nhạy cảm về bức tranh, con người Hà Nội.

– Truyện giàu chất thơ.

*Nêu cảm nghĩ về thông điệp mà tác giả gửi gắm qua nhân vật trong cuộc sống hôm nay:

Trong cuộc sống, chúng ta cần vượt lên trên những suy nghĩ ích kỉ, tầm thường để hướng tới sự, nhiệt tình thậm chí là hi sinh thầm lặng. Chính thái độ nhiệt tình, hi sinh thàm lặng của chúng ta sẽ khiến cho những người người mắc sai lầm tự thấy xấu hổ và quay đầu sửa chữa.

III – Kết bài

– Đánh giá chung về đoạn trích và nêu cảm nghĩ của bản thân.

Bài văn tham khảo

Tác giả Bảo Ninh là một cây bút xuất sắc trên nền văn học Việt Nam. Ông viết nhiều, viết khỏe và thành công trên nhiều phương diện từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, đặc biệt là truyện ngắn. Hình tượng người lính trong các tác phẩm truyện ngắn của ông thường có sức ám ảnh rất lớn với người đọc bởi phẩm chất anh dũng, sự chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, về chiến tranh và nhân vật người lính trong “Khắc dấu mạn thuyền” là một nhân vật như thế.

Đoạn trích “Khắc dấu mạn thuyền “là câu chuyện với ngôi kể thứ nhất, được khởi nguồn từ mạch hồi tưởng của người chiến sĩ khi anh có dịp trở lại Hà Nội sau hơn 20 năm, sau ngày chiến tranh kết thúc. Lúc này Hà Nội với anh thật xa lạ, sâu thẳm nhưng chẳng biết tự bao giờ trong tiềm thức, Hà Nội của 20 năm về trước – cái dạo mà Hà Nội chưa phát triển như bây giờ, khi anh vẫn đương độ xuân thì là một miền ký ức đau khổ nhưng vô cùng tươi đẹp, miền ký ức để anh nhớ mãi không thể nào quên.

Hai mươi năm trước Hà Nội gieo vào anh nỗi nhớ thương sâu thẳm, đó là khi anh nhận nhiệm vụ mang thư cho đồng đội về Hà Nội. Anh háo hức đến gõ cửa từng nhà để trao thư và những mong nhận được cánh thư hồi âm từ gia đình để trao cho đồng đội. Người lính đã thất vọng biết nhường nào khi không cánh cửa nào mở, Hà Nội đóng chặt cửa vì bom đạn. Dẫu vậy người lính trẻ vẫn tràn trề hy vọng sẽ nhận được một cánh thư hồi âm để gửi đến những người anh em, đồng đội của mình. Đó là một nét đẹp thật đáng quý của anh, anh đã làm việc bằng tất cả trách nhiệm của mình.

Viết bài văn nghị luận phân tích và đánh giá hình ảnh người lính trong đoạn trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh
Vẻ đẹp của phẩm chất người lính được tô đậm hơn khi nhà văn đặt anh vào một tình huống éo le: Anh bị cơn sốt rét hành hạ, nằm ngất trước của nhà của một cô gái không tên. Anh được cô chăm sóc ân cần bằng tất cả tình thương, trách nhiệm của người dân dành cho người lính. Người đọc bật cười trước sự bỡ ngỡ, thẹn thùng của anh khi nằm trên giường của một cô gái, quần áo không có trên người do bị ướt hết. Cái ngây ngô, đáng yêu rất duyên dáng của chàng trai còn rất trẻ gieo vào lòng người đọc những tình cảm thật đáng quý. Nhưng không vì thế mà người lính mất đi nét kiên trung, phẩm chất gan dạ, quật cường của mình.

Giặc Mỹ bất ngờ thả bom B52 rải lên thủ đô Hà Nội, nếu nằm im thì chết chắc. Với cảm quan của người lính đã vào sinh ra tử nơi chiến trường, người lính cố gắng lết tấm thân vẫn còn mệt mỏi của mình, dũng cảm đưa người con gái đã cứu sống mình băng qua bom đạn để tìm nơi trú ẩn. Trớ trêu thay tất cả các hầm trú ẩn đều đã kín người và ở quá xa, hai người như cá nằm trên thớt dưới bom đạn của kẻ thù. Trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc ấy người lính đã bình tĩnh, dũng cảm dùng tấm thân của mình để che chở, bảo vệ cho cô gái ấy bằng tất cả sự chân thành, ấm áp của mình. Cuộc đấu trí đầy kịch tính giữa người lính và bom đạn của kẻ thù khiến người đọc như nín thở bởi nó quá đỗi dữ dội, khủng khiếp. Giữa hoàn cảnh khắc nghiệt, dữ dội đó người lính không hề nao núng, anh bình tĩnh xử lý tình huống, phân tích tình hình để đưa ra phương án tốt nhất. Vẻ đẹp của sự mưu trí, anh dũng, quả cảm của người lính cụ Hồ đã được thể hiện trong mọi hoàn cảnh, tình huống.

Vượt cửa tử đầy ngoạn mục người lính lại lao vào khắc phục hậu quả sau bom Mỹ ném, dù người chưa tỉnh táo hẳn nhưng anh vẫn hết lòng phục vụ nhân dân “Anh phải lại đó góp một tay. Em về trước đi. Anh về sau! – Tôi nói.” Anh hộc tốc đi cứu người, lao khuất vào trong vùng phố xá vừa bị huỷ diệt, vừa ngổn ngang, vừa tanh bành…”

Sau này không có dịp gặp lại người con gái đã cứu mình trong cơn ốm thập tử nhất sinh, người lính vẫn đau đáu về một ký ức về Hà Nội, nhớ bóng hình thân quen mà mình đã gặp, đã chiến đấu trên mặt trận không tên.

Tác phẩm lấy điểm nhìn của nhân vật tôi đồng thời là người lính để bộc bạch, giãi bày những tâm trạng, nỗi niềm về cuộc đời, chiến tranh, về một thời tuổi trẻ. Ngôi xưng thứ nhất tôi khiến câu chuyện chân thực hơn, nhân vật có thể len lỏi sâu vào ngóc ngách tâm tư sâu kín của nhân vật khác để bộc lộ tình cảm, đánh giá về các nhân vật. Những cảm nhận về thủ đô Hà Nội trước và sau chiến tranh, về người con gái mình gặp mặt tình cờ nhưng hữu ý, những suy nghĩ của anh về trận chiến… tất cả đã góp phần thể hiện thật chân thực vẻ đẹp của người lính trong chiến tranh.

Viết bài văn nghị luận phân tích và đánh giá hình ảnh người lính trong đoạn trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh
Kết cấu truyện lồng trong truyện những mảng hồi ức xen kẽ giữa hiện tại – quá khứ – hiện tại, tất cả đồng hiện, tình tiết kịch tính cũng góp phần bộc lộ phẩm chất nhân vật, truyền tải chủ đề của tác phẩm. Tác phẩm xây dựng hình tượng tuyệt đẹp về người lính giải phóng với vẻ đẹp của sự kiên trung, bất khuất, anh dũng, quả cảm, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tình người trong chiến tranh, sự hy sinh vì nhau của cả dân tộc.

Người lính không tên trong tác phẩm “Khắc dấu mạn thuyền” là một hình tượng tuyệt đẹp về anh bộ đội cụ Hồ. Với tác phẩm này Bảo Ninh đã khẳng định tài năng của mình trên địa hạt thơ ca Việt Nam ở mảng truyện ngắn thời chiến.

 

Exit mobile version