I. Mở bài
Trong kho tàng thơ ca viết về làng quê Việt Nam, Đoàn Văn Cừ là một trong những cây bút nổi bật với phong cách chân quê, giàu hình ảnh và đậm chất hoài niệm. Thơ ông như một khúc ca dịu dàng gợi nhớ về những miền ký ức bình dị của một thời xưa cũ. Bài thơ “Tết quê bà” là một tác phẩm như thế — chỉ với vài dòng thơ ngắn ngủi, nhưng đã tái hiện sống động không gian đầm ấm của một cái Tết truyền thống tại ngôi nhà quê nhỏ bé, giản dị. Qua đó, nhà thơ không chỉ thể hiện tình cảm yêu mến sâu sắc đối với quê hương, với người bà tần tảo, mà còn truyền đến người đọc thông điệp về giá trị văn hoá thiêng liêng của ngày Tết cổ truyền dân tộc.
II. Thân bài: Tập trung nêu nội dung, chủ đề và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ.
– Khái quát về bài thơ.
+ Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Bài thơ Tết quê bà được sáng tác năm 1941, được đưa vào tập thơ Thôn ca năm 1944. Đến năm 2013, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đưa vào cuốn Đoàn Văn Cừ toàn tập. Bài thơ được trích ra từ cuốn sách đó.
+ Thể loại của bài thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ. Cả bài thơ gồm tám câu thơ ngắn gọn.
– Nêu nội dung chủ đề:
Bài thơ Tết quê bà miêu tả, biểu cảm về ngôi nhà giản dị, quen thuộc của bà nơi làng quê yên bình và cảnh ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Từ đó, nhà thơ thể hiện tình cảm yêu mến, gắn bó với con người, cảnh vật, ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Đồng thời nhắc khẽ người đọc phải biết trân trọng, giữ gìn những vẻ đẹp bình dị ấy, đặc biệt là nét đẹp văn hoá ngày Tết cổ truyền của dân tộc.
– Làm rõ nội dung, chủ đề bài thơ:
+ Chủ đề của bài thơ thể hiện ở hình ảnh ngôi nhà của bà và cảnh ngày Tết ở quê bà trong bài thơ.
Hình ảnh ngôi nhà của bà hiện lên thật giản dị “một túp nhà trẻ”, “một hàng cau trước hè”, “một mảnh vườn”, “giậu nứa”. Hình ảnh “một túp nhà trẻ” vừa gợi ngôi nhà bé nhỏ, đơn sơ vừa gợi cuộc sống nghèo, bình dị của bà. Đó cũng là tình cảm yêu thương, trân trọng pha lẫn chút xót xa của đứa cháu trước hoàn cảnh sống của bà. Nhưng hình ảnh “có một hàng cau chạy trước hè”, “một mảnh vườn bên rào giậu nứa” giúp ta hình dung ra ngôi nhà, mảnh vườn, bờ giậu, thật tươm tất, gọn gàng, sạch sẽ và cuộc sống không bon chen. Đó cũng là cuộc sống bình dị, dân dã nơi làng quê Việt Nam. Cuộc sống nghèo, mảnh vườn nhỏ nhưng không gợi sự heo hút, buồn vắng mà biểu thị một sắc màu tươi vàng của rau cải vườn nhà. “Xuân về hoa cải nở vàng hoe” một cuộc sống đời thường thanh đạm, quen thuộc, gần gũi. Cuộc sống thật yên bình nơi làng quê thôn dã và đằng sau hình ảnh ngôi nhà, mảnh vườn, bờ giậu ấy thấp thoáng hình ảnh người bà tần tảo, cần cù, chịu thương, chịu khó và đảm đang, tháo vát, gọn gàng,
Cảnh Tết đến xuân về: Tết cổ truyền là ngày Tết quan trọng và ý nghĩa đối với mọi gia đình Việt Nam. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả, cái nghèo còn chưa hết nhưng ngày Tết nhà nào cũng có: Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh. Theo đó, hình ảnh ngày Tết cổ truyền trong Tết quê bà của nhà thơ cũng có đầy đủ: Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng/ Cả đêm cuối chạp nướng than hồng/ Quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn/ Cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông. Đó là những hình ảnh quen thuộc, đặc trưng của ngày Tết: gạo nếp, bánh chưng, quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn, cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông. Khung cảnh ngày Tết trong thơ Đoàn Văn Cừ thật tấp nập, đông vui, ấm cúng, tràn ngập niềm vui và và rực rỡ sắc màu. Khung cảnh rộn rã, đông vui, ấm cúng của ngày Tết tại chính ngôi nhà giản dị, mộc mạc của bà đã gợi ra những niềm vui bình dị nhưng đầy ý nghĩa. Đặc biệt là ngày Tết cổ truyền, mọi thành viên trong gia đình đều được trở về mái nhà bình dị xưa để đoàn viên, cùng nhau làm mâm cơm cúng ông bà, tổ tiên, cầu mong một năm mới nhiều sức khoẻ, bình an và may mắn, thuận lợi.
Ngày nay, khi những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc đang dần bị mai một, con người đang chạy theo xu hướng hiện đại thì những giá trị văn hoá nói chung và ngày Tết cổ truyền nói riêng càng đáng quý biết bao.
Đó là nét đẹp văn hoá cổ truyền của dân tộc có từ ngàn đời nay mà nhà thơ muốn nhắc nhở mọi người hãy trân trọng, giữ gìn.
– Phân tích tác dụng một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ:
+ Thể thơ bảy chữ, cách ngắt nhịp và gieo vần tự do, không bị gò bó thể hiện cảm xúc của nhà thơ một cách tự nhiên, trôi chảy.
+ Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi, giàu sức gợi dễ dàng đưa ta trở về với những ngôi nhà thân yêu, quen thuộc và trở về với ngày Tết cổ truyền – nét đẹp văn hoá của dân tộc.
+ Biện pháp tu từ liệt kê: “ngôi nhà, mảnh vườn, bờ giậu, gạo nếp, bánh chưng, quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn, cơm tám, dưa hành,… làm cho sự vật, sự việc hiện lên phong phú và đa dạng, cụ thể hơn. Đồng thời làm hiện lên Tết của bà trong kí ức của nhà thơ có đủ đầy những món ăn dân dã trong ngày Tết.
+ Kết hợp các phương thức biểu đạt kể, tả, biểu cảm làm cho nội dung vừa cụ thể vừa lắng sâu.
=> Bài thơ ngắn gọn, có sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung với những hình thức nghệ thuật độc đáo tạo cho bài thơ trọn vẹn về nội dung, nghệ thuật vừa thể hiện được chủ đề tác phẩm lại vừa thể hiện được tài năng, tình cảm của tác giả.
III. Kết bài:
Với lời thơ dung dị, giàu hình ảnh và cảm xúc, bài thơ “Tết quê bà” không chỉ tái hiện một không gian Tết truyền thống thấm đẫm hương quê mà còn khơi dậy trong mỗi người những kỷ niệm thiêng liêng về gia đình, quê hương và cội nguồn dân tộc. Tác phẩm như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng: giữa vòng xoay của cuộc sống hiện đại, đừng quên gìn giữ những điều bình dị, chân chất đã làm nên hồn cốt dân tộc Việt.
Còn với riêng tôi, bài thơ là một nhịp cầu để tôi trở về với những ký ức Tết tuổi thơ — nơi có tiếng cười, mùi bánh chưng, có bà và ngôi nhà nhỏ giữa vườn xuân rực rỡ…