( Nguyễn Minh Châu)
I. Kiến thức cơ bản:
1, Tác giả | – Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê Nghệ An. Ông là cây bút xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam. – Sau 1975 ông có nhiều tìm tòi, đổi mới về tư tưởng nghệ thuật. – Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. – Phong cách sáng tác: Có sự kết hợp hài hòa giữa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật được soi thấu trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp, giọng điêu thì trầm tĩnh khắc khoải. |
2, Văn bản | a) Hoàn cảnh ra đời: Truyện ngắn “Bến quê” được in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu xuất bản 1985. |
b) Nghệ thuật, nội dung: 1. Nghệ thuật: – Tình huống truyện được xây dựng trên cơ sở một chuỗi nghịch lý. – Xây dựng kiểu nhân vật tư tưởng : những chiêm nghiệm, triết lý của tác giả được chuyển hoá vào trong cuộc sống nội tâm của nhân vật, với diễn biến tâm trạng dưới sự tác động của hoàn cảnh, được miêu tả tinh tế, hợp lý. – Sáng tạo nhiều hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng. 2. Nội dung: – Bến quê chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình, của quê hương |
|
c) Tóm tắt: Chuyện kể về nhân vật Nhĩ đã từng đi khắp nới trên trái đất. Nhưng về cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo đến nỗi không thể dịch chuyển lấy vài mươi phân trên cửa sổ. Nhìn sang bãi bồi bên kia sông Hồng. Chính vào thời điểm ấy Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông nơi bến quê quen thuộc một vẻ đẹp bình dị mà hết sức quến rũ. Cũng chính lúc nằm liệt giường Nhĩ mới cảm nhận được hết nỗi vất vả, tình yêu thương, đức hy sinh thầm lặng của vợ mình. Nhĩ khát khao được một lần đặt chân lên bãi bờ bên kia sông. Các miền đất thật gần gũi nhưng lại xa vời vô cùng. Không thể thực hiện được cái điều mình khao khát. Nhĩ đã nhờ đứa con trai thay mình sang đặt chân lên bến bờ bên kia sông. Nhưng đứa con không hiểu ước muốn của cha nó miễn cưỡng và bị hút vào trò chơi hấp dẫn trên dường đi để rồi bị lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Từ đó Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật đầy nghịch lý của cuộc sống: “Con người ta khó tránh khỏi cái vòng vèo, chùng chình, phải dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống.” |
|
3, Ý nghĩa nhan đề văn bản | – “ Bến quê” trước hết là một danh từ và mang đến nhiều lớp nghĩa + Ở lớp nghĩa thực, nó là một bến sông gắn liền bãi bồi bên kia sông Hồng mà nhân vật Nhĩ nhìn thấy thừ khung cửa sổ nhà mình. + Ở lớp nghĩa biểu tượng, nó ẩn dụ cho tất cả những gì gần gũi, bình dị, thân thương nhất trong cuộc đời của mỗi con người; cho những điều mà tâm hồn con người gắn bó yêu thương. |
II, Đọc- hiểu văn bản
1, Nhân vật Nhĩ | a, Những cảm nhận và phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên: – Nhĩ cảm nhận và phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên khi anh đang ở trong một cảnh ngộ rất éo le: + Anh vốn từng ngang dọc nhiều nơi trên thế giới: “đã từng đi tới không xót một xó xỉnh nào trên Trái Đất”. + Cuộc sống hiện tại, vì căn bệnh hiểm nghèo đã khiến anh phải nằm liệt một chỗ, không thể tự mình di chuyển lấy vài phân. Và bằng trực quan, anh cảm nhận thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa. Hoàn cảnh ấy đã buộc Nhĩ phải sống chậm lại. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn để nhân vật những cảm nhận và suy nghĩ một cách tự nhiên -Nhĩ lần lượt phát hiện ra những vẻ đẹp xung quanh rất đỗi giản dị, gần gũi bằng một cảm xúc tinh tế. + Những chùm hoa bằng lăng bên cửa sổ lúc cuối mùa, đang thưa thớt và đậm sắc hơn . + Xa xa là dòng sông Hồng mang “một màu đỏ nhạt, mặt sông thì như rộng thêm ra”. + Vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước”. + Bãi bồi bên kia sông, cả một vùng phù sa đang phô ra màu vàng thau xen lẫn màu xanh non. Những phát hiện thiên nhiên được Nhĩ cảm nhận từ gần đến xa, từ thấp đến cao khiến cho cảnh thiên nhiên vừa có chiều rộng, lại vừa có chiều sâu. Không gian, cảnh sắc ấy vốn là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, vậy mà bỗng trở nên đẹp đẽ như một phát hiện, khám phá đặc biệt. |
c, Những phát hiện của Nhĩ về con người và cuộc sống: -Bằng những linh cảm, trực giác, anh cảm nhận một cách rõ nét về quỹ thời gian còn lại của đời mình + Anh thấy sắc màu của hoa bằng lăng trở thành một màu tím thẫm. + Anh hỏi Liên về tiếng lở đất ở dốc đứngcủa con sông khi cơn lũ dồn về. -Nhĩ cảm nhận, thấu hiểu được bao phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn từ Liên. + Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bình dị và mộc mạc của vợ qua “tấm áo vá” và “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”. + Anh cảm thấy được một người phụ nữ tần tảo và giàu đức hi sinh: Nhĩ nói viên Liên- “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh”, Liên chỉ trả lời- “có sao đâu … miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”. + Một người vợ đảm đang và quan tâm chồng hết mực: Liên chăm chút anh từ miếng ăn, ấm thuốc đến việc an ủi, động viên. + Nhĩ còn cảm nhận được một người vợ tinh tế và thấu hiểu chồng: Liên lảng tránh những câu nói của anh bãi đất lở, bởi chị hiểu những suy nghĩ , dự cảm không lành trong anh. +Một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức khiêm nhường qua bước chân rất nhẹ trên những bậc thang gỗ đã mòn lõm. Nhĩ dã cảm nhận và thấu hiểu một cách chọn vẹn những vất vả , nhọc nhằn, sự hi sinh thầm lặng của Liên. Từ đó anh thêm trân trọng vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn và yêu thương vợ hơn. -Nhĩ cũng cảm nhận tình làng nghĩa xóm qua nét đáng yêu của những đứa trẻ hàng xóm, tay “chua lòm mùi nước dưa” … => Nguyễn Minh Châu đã để cho Nhĩ khám phá, phát hiện và cảm nhận những điều gần gũi, giản dị và thân thuộc với mình chất, để cho anh tự nhận ra bến đậu bình yên của cuộc đời không phải tìm đâu nơi chân trời, góc bể mà chính là gia đình, là xóm làng, là quê hương. -Nhĩ phát hiện ra ý nghĩa của bãi bồi bên kia sông. + Đó là một mảnh đất màu mỡ, mang theo hơi thở của cuộc sống “một thứ màu vàng thau xen với xanh non- những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”. + Là hiện thân cho tất cả những điều bình thường, gần gũi nhưng bỗng chốc trở nên xa xôi: “một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”. + Từ những phát hiện đó, anh khao khát được một lần đặt chân lên bãi bồi song vấp phải hàng loại những nghịch lí: Nghịch lí đầu tiên là anh không còn khả năng, cơ hội để thực hiện khao khát kia của mình; nghịch lí thứ hai là Nhĩ dồn ước mơ của mình vào cậu con trai, nhưng đứa con trai lại không hiểu được ước muốn của anh mà thực hiện một cách miễn cưỡng, rồi bị những trò chơi vô bổ cuốn đi và bỏ lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. + Nhĩ không trách con, bởi anh hiểu khi còn trẻ thì người ta thường bỏ qua và không nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Để qua đó anh đúc rút qui luật phổ biến của đời người: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được cái vòng vèo hoạc chùng chình”. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Nhĩ. Anh là một nhân vật tư tưởng của tác phẩm để nhà văn gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, hãy tránh xa những cái vòng vèo, chùng chình để tìm về với bền quê đích thực |
|
2, Những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: | Trong truyện, có rất nhiều những hình ảnh được miêu tả mang hai lớp nghỉa, đó là lớp nghĩa thực và lớp nghĩa biểu tượng. -Hình ảnh bãi bồi: “Màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc tha thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ” +Lớp nghĩa thực: Tả thực khungcảnh thiên nhiên với với đất đai màu mỡ. +Lớp nghĩa biểu tượng: đó là vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc để biểu tượng cho một bến sông quê hay rộng hơn chính là quê hương, xứ sở. -Hình ảnh bông hoa bằng lăng lúc cuối thu: “Hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”; “Những cánh hoa bằng lăng càng thẫm màu hơn –một màu tím thẫm như bóng tối” +Lớp nghĩa thực: Tả thực những bông hoa bằng lăng với những sắc màu đặc trưng lúc cuối mùa. +Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho bước đi của không gian và thời gian và cho biết sự sống của Nhĩ đang ở vào những ngày cuối cùng. +Hình ảnh của một bờ đất lở: “một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đá đổ òa vào giấc ngủ”. +Lớp nghĩa thực: tả thực sự dữ dôi, chảy xiết của những cơn lũ đầu nguồn mỗi khi bão về với sức công phá ghê gớm. + Lớp nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho sự sống của Nhĩ đang vào giai đoạn lụa tàn. -HÌnh ảnh của Nhĩ với những hành đọng va cử chỉ lúc cuối truyện: “mặt mũi Nhĩ đỏ rực một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô mình ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó” + Lớp nghĩa thực: Tả thực một sự cố gắng, nôn nóng, thúc giục của Nhĩ với thân tàn, lực kiệt để báo hiệu với một ai đó + Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu hiện cho sự thức tỉnh của nhân vật, Nhĩ đã khám phá ra được những vẻ đẹp bình dị, bền vững trong sự sống ở những giây phút cuối cùng. Những lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất với nhau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả để truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. |
III, Luyện tập
A) DẠNG ĐỀ ĐỌC HIỂU
Đề bài:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: “ Anh không dám nhìn vào mặt con, trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ , anh ngạc nhiên nhận thấy những cánh hoa bằng lăng càng thẫm màu hơn- một màu tím thẫm như bóng tối… Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống nhà dưới, anh hỏi Liên: – Đêm qua lúc gần sáng em có nghe tháy tiếng gì không? Liên giả vờ không nghe câu chồng vừa hỏi. Trước mặt chị hiện ra một cái bờ đát lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với cơn lũ nguồn đã bắt đầu dồn về những tảng đất đổ òa vào giấc ngủ” 1. Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Của ai? 2. Đoạn văn trên được kể theo ngôi thứ mấy? Ai là người kể chuyện? 3. Hãy chỉ ra câu ghép và phân tích cấu tạo ngữ pháp? 4. Chỉ ra hàm ý của đoạn văn trên và nêu ý nghĩa của hàm ý đó? 5. Tìm và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu sau: “ Trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài của sổ, anh gạc nhiên thấy những cánh hoa bằng lăng vàng thẫm màu hơn một màu tím thẫm như bóng tối” |
Gợi ý:
1. Đoạn văn trên trích trong văn bản “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.
2. Đoạn văn được kể theo ngôi thứ nhất, Nhĩ là người kể chuyện.
3. Trước mặt chị( CN1)/ hiện ra một cái bờ đát lở dốc đứng của bờ bên này( VN1), và đêm đêm cùng với cơn lũ nguồn đã bắt đầu dồn về những tảng đất ( CN2)/đổ òa vào giấc ngủ”( VN2)?( Câu ghép)
4.
– Hàm ý: Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?
– Ý nghĩa: Nói đến việc đất ở ven sông gợi sự đổ vỡ, mất mát, gợi sự liên tưởng đau lòng đến tình trạng nguy kịch của người chồng đang ốm khiến anh đau buồn thêm.
5. Nghệ thuật so sánh: “ một màu tím thẫm như bóng tối”
Tác dụng: Miêu tả màu sắc của cánh hoa bằng lăng gợi sự liên tưởng đến cuộc đời buồn của nhân vật Nhĩ.
B) DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Bài tập 1. Truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu được tạ̣o nên bởi các sự kiện nào? Em có suy nghĩ gì về con người và cuộc đời.
Gợi ý:
Các sự kiện:
– Bến quê kể về Nhĩ, một con người từng trải đã đi rất nhiều nơi “đã từng in gót chân trên khắp mọi chân trời xa lạ”. Nhưng cuối đời lại bị căn bệnh hiểm nghèo nằm liệt trên giường.
– Nhĩ nhìn ra cửa sổ ngắm hàng cây bằng lăng, con sông Hồng trong nắng sớm và bãi bồi bên kia sông.
– Nhĩ trò chuyện với vợ, bày tỏ lòng biết ơn.
– Nhĩ sai con trai đi sang bãi bồi bên kia sông Hồng thay mình, nhưng con trai anh lại sa vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố.
– Lũ trẻ con hàng xóm ang giúp Nhĩ trở người dậy.
– Nhĩ lại nghĩ đến vợ, thức tỉnh vẻ đẹp tâm hồn của vợ.
– Ông giáo Khuyến sang thăm, hoảng hốt trước vẻ mặt bất thường của Nhĩ và Nhĩ cố nhô người ra ngoài “Giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát”.
* Suy nghĩ về con người và cuộc đời:
– Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính khôn ngoan.
– Thời trai trẻ con người chưa đủ từng trải, chưa đủ kinh nghiệm để nhận ra vẻ đẹp bình dị của cuộc sống.
– Những người trẻ tuổi nên ý thức về những giá trị của cuộc đời: Tránh được những điều vòng vèo hoặc chùng chình, những sự lãng quên sẽ khỏi tiếc nuối, ân hận về cuộc đời.
Bài tập 2. Cảm nhận về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên
– Giới thiệu về hoàn cảnh của Nhĩ: Quãng đời vừa qua, Nhĩ “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”. Vậy mà đến cuối đời, ông lại bị cột chặt vào giường bệnh vì căn bệnh quái ác.
– Nằm trên giường bệnh Nhĩ đã nhận ra được vẻ đẹp của thiên nhiên nơi bến quê.
+ Vẻ đẹp của hàng cây bằng lăng với những bông hoa cuối mùa đậm sắc hơn.
+ Con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông rộng hơn ở tiết trời đầu thu.
+ Vòm trời thu như cao, xanh hơn.
+ Tia nắng sớm di chuyển từ mặt nước…
+ Đặc biệt là vẻ đẹp trù phú, tràn đầy sức sống của bãi bồi ở bên kia sông Hồng “một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non”.
– Mỗi cảnh vật thiên nhiên đều mang một nét riêng rất gần gũi, rất đỗi quen thuộc. Vẻ đẹp ấy còn thấm đẫm cảm xúc của người trừng trải đã nhận thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia.
Þ Nhĩ nhận ra vẻ đẹp bình dị, thân thương của quê hương – bức tranh thiên nhiên mang đậm hồn quê.
Bài tập 3. Suy nghĩ của em về những nghịch lí và chiêm nghiệm về cuộc đời Nhĩ trong truyện ngắn Bến quê:
– Hoàn cảnh của Nhĩ.
– Nhĩ nhận ra những nghịch lí của đời người
+ Nghịch lí thứ nhất: Nhĩ đã từng trải, ông “đã từng … trái đất”. Ấy thế mà cuối đời, ông bị cột chặt vào giường bệnh vì căn bệnh quái ác, đến nỗi trở người cũng không tự mình làm được, phải nhờ trẻ con hàng xóm xem: “Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười, y như một chú bé mới đẻ … Khoảng cách ước chừng năm chục phân”.
+ Nghịch lí thứ hai: Đi nhiều nơi … vậy mà ngay cái bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhà mình thì ông lại chưa bao giờ đặt chân đến và sẽ không bao giờ đặt chân đến được nữa.
+ Nghịch lí thứ ba: Nhĩ nhờ con trai thực hiện giúp mình ái khao khát cuối đời của ông. Nhưng đứa con cũng giống ông lại sa vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố.
+ Nghịch lí thứ tư: Ông sống với vợ gần cả cuộc đời, vậy nà đến những ngày cuối đời, ông mới thấu thiểu được tấm lòng và sự hi sinh cao cả của vợ, mới thấu hiểu hết vẻ đẹp tâm hồn của vợ.
– Từ những nghịch lí của cuộc đời, Nhĩ đã chiêm nghiệm được qui luật của đời người. Phải chăng gia đình và ngõ xóm là “bến quê” neo đậu của cuộc đời mỗi con người? Ta phải biết trân trọng đối với vẻ đẹp bình dị, gần gũi của cuộc sống quê hương.
Đề bài: Phân tích những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn Bến quê?
1. Mở bài:
Nguyễn Minh Châu quê ở tỉnh Nghệ An. Ông là cây bút văn xuôi tiêu biểu thời kì kháng chiến chống Mĩ. Văn bản “Bến quê” được in trong tập truyện cùng tên của ông xuất bản 1985. Truyện đã thành công thể hiện những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ, từ nhân vật Nhĩ giúp chúng ta nhận ra triết lí sâu sắc ở đời, một nhận thức đau đớn, sáng ngời của con người giúp cho chúng ta luôn ngẫm về đời và hành động.
2. Thân bài:
a) Luận điểm 1: Những cảm nhận và phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên trong buổi sáng đầu thu nhìn thừ khung cửa sổ căn phòng anh.
– Nhĩ cảm nhận và phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên khi anh đang ở trong một cảnh ngộ rất éo le:
+ Anh vốn từng ngang dọc nhiều nơi trên thế giới: “đã từng đi tới không xót một xó xỉnh nào trên Trái Đất”.
+ Cuộc sông hiện tại, vì căn bệnh hiểm nghèo đã khiến anh phải nằm liệt một chỗ, không thể tự mình di chuyển lấy vài phân. Và bằng trực quan, anh cảm nhận thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa.
Hoàn cảnh ấy đã buộc Nhĩ phải sống chậm lại. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn để nhân vật những cảm nhận và suy nghĩ một cách tự nhiên
– Nhĩ lần lượt phát hiện ra những vẻ đẹp xung quanh rất đỗi giản dị, gần gũi bằng một cảm xúc tinh tế.
+ Những chùm hoa bằng lăng bên cửa sổ lúc cuối mùa, đang thưa thớt và đậm sắc hơn .
+ Xa xa là dòng sông Hồng mang “một màu đỏ nhạt, mặt sông thì như rộng thêm ra”.
+ Vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước”.
+ Bãi bồi bên kia sông, cả một vùng phù sa đang phô ra màu vàng thau xen lẫn màu xanh non.
Những phát hiện thiên nhiên được Nhĩ cảm nhận từ gần đến xa, từ thấp đến cao khiến cho cảnh thiên nhiên vừa có chiều rộng, lại vừa có chiều sâu. Không gian, cảnh sắc ấy vốn là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, vậy mà bỗng trở nên đẹp đẽ như một phát hiện, khám phá đặc biệt.
b) Luận điểm 2: Những suy ngẫm của Nhĩ
* Hoàn cảnh: Nhân vật Nhĩ ở trong câu chuyện ở vào hoàn cảnh rất đặc biệt. Căn bệnh hiểm nghèo đã khiến Nhĩ hầu như bị liệt toàn thân khong thể tự mình di chuyển được dù chỉ là nhích nửa người. Tất cả mọi sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà chủ yếu là Liên- vợ anh.
Trong cái buổi sáng ấy, Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác thời gian của đời mình chẳng còn bao nhiêu lâu nữa, còn Liên thì hầu như cũng đã cảm nhận được tình cảnh ấy của Nhĩ đã lảng tránh những câu hỏi của anh.
* Cảm xúc và suy nghĩ của Nhĩ về người vợ:
– Những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh Nhĩ mới cảm nhận được vẻ đẹp của Liên – vợ anh.
+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bình dị và mộc mạc của vợ qua “tấm áo vá” và “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”.
+ Anh cảm thấy được một người phụ nữ tần tảo và giàu đức hi sinh: Nhĩ nói với Liên- “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh”, Liên chỉ trả lời- “có sao đâu … miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”.
+ Một người vợ đảm đang và quan tâm chồng hết mực: Liên chăm chút anh từ miếng ăn, ấm thuốc đến việc an ủi, động viên.
+ Nhĩ còn cảm nhận được một người vợ tinh tế và thấu hiểu chồng: Liên lảng tránh những câu nói của anh bãi đất lở, bởi chị hiểu những suy nghĩ , dự cảm không lành trong anh.
+Một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức khiêm nhường qua bước chân rất nhẹ trên những bậc thang gỗ đã mòn lõm.
Nhĩ đã cảm nhận và thấu hiểu một cách chọn vẹn những vất vả , nhọc nhằn, sự hi sinh thầm lặng của Liên. Từ đó anh thêm trân trọng vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn và yêu thương vợ hơn.
– Nhĩ cũng cảm nhận tình làng nghĩa xóm qua nét đáng yêu của những đứa trẻ hàng xóm, tay “chua lòm mùi nước dưa” …
=> Nguyễn Minh Châu đã để cho Nhĩ khám phá, phát hiện và cảm nhận những điều gần gũi, giản dị và thân thuộc với mình chất, để cho anh tự nhận ra bến đậu bình yên của cuộc đời không phải tìm đâu nơi chân trời, góc bể mà chính là gia đình, là xóm làng, là quê hương.
* Khao khát đặt chân lên bãi bồi bên kia sông
– Khi nhận ra vẻ đẹp của bãi bồi bên sông cũng là lúc ở Nhĩ bừng lên một niềm khao khát cháy bỏng : được đặt chân lên bãi bồi đó.
+ Đó là một mảnh đất màu mỡ, mang theo hơi thở của cuộc sống “một thứ màu vàng thau xen với xanh non- những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”.
+ Là hiện thân cho tất cả những điều bình thường, gần gũi nhưng bỗng chốc trở nên xa xôi: “một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”.
+ Từ những phát hiện đó, anh khao khát được một lần đặt chân lên bãi bồi song vấp phải hàng loại những nghịch lí: Nghịch lí đầu tiên là anh không còn khả năng, cơ hội để thực hiện khao khát kia của mình; nghịch lí thứ hai là Nhĩ dồn ước mơ của mình vào cậu con trai, nhưng đứa con trai lại không hiểu được ước muốn của anh mà thực hiện một cách miễn cưỡng, rồi bị những trò chơi vô bổ cuốn đi và bỏ lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
+ Nhĩ không trách con, bởi anh hiểu khi còn trẻ thì người ta thường bỏ qua và không nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Để qua đó anh đúc rút qui luật phổ biến của đời người: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được cái vòng vèo hoạc chùng chình”.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Nhĩ. Anh là một nhân vật tư tưởng của tác phẩm để nhà văn gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, hãy tránh xa những cái vòng vèo, chùng chình để tìm về với bến quê đích thực
* Liên hệ : Từ nhân vật Nhĩ chúng ta cảm nhận đầy đủ chiêm nghiệm cuộc đời của con người. Đồng thoeif chúng ta có thể nhận thấy , nghe thấy rõ ở Nhĩ một nhận thức đau đớn và sáng ngời về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương mà không phải ai cũng rễ ràng nhận ra.
c) Luận điểm 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
– Truyện được trần thuật theo cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ trong cảnh ngộ đặc biệt.
– Các hình ảnh trong truyện đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa tả thực và nghĩa biểu tượng.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã góp phần xây dựng dễn biến tâm lí nhân vật Nhĩ thành công.
3. Kết bài
Tóm lại, nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng mà tác giả đã gửi gắm qua nhân vật những điều quan sát, suy ngẫm triết lí về đời người. Bến quê là một truyện ngắn xuất sắc chứa đựng chiêm nghiệm triết lí về đời người, cùng với những cảm xúc tinh tế, lời văn giàu cảm xúc có nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng.
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu để làm sáng tỏ nhận xét : “Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường những nghịch lý , ngẫu nhiên , vượt ra ngoài những dự định và ước muốn cả những hiểu biết và toan tính của người ta”.
A/ Thể loại : Phân tích một tác phẩm tự sự và có dẫn chứng minh hoạ làm rõ nội dung của một nhận định
B/ Hình thức :
– Đảm bảo bài viết là một văn bản hoàn chỉnh có bố cục rõ ràng, hợp lý .
– Chữ viết đẹp ,sạch sẽ không sai lỗi chính tả ngữ pháp lỗi dùng từ . Cách trình bầy mạch lạc sáng sủa . Bài viết thể hiện được năng lực phân tích một tác phẩm tự sự .
C/ Nội dung :
1/ Phân tích tình huống truyện : ( 2 đ )
– Nhân vật Nhĩ trong truyện ở vào một hoàn cảnh đặc biệt : Đã từng đi khắc nơi cuối đời bị buộc chặt vào giường bệnh khi đó mới nhận ra vẻ đẹp và giá trị truyền thống bình dị , gần gũi của cuộc đời .
– Tình huống truyện trớ trêu như một nghịch lý :
+ Vào một buổi sáng khi Nhĩ muốn nhích mình ra cửa sổ thì khó khăn như phải đi hết cả một vòng trái đất .
+ Khi phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông nhưng anh biết mình không bao giờ có thể đặt chân lên được .
+ Nhĩ nhờ con trai thực hiện khao khát đó nhưng cậu ta lại sa vào một đám chơi cờ trên hè phố và có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày .
2/ Phân tích tâm trạng và cử chỉ của Nhĩ .
a) Cảm nhận của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên trong buổi sáng đầu thu : (1 đ )
– Cảnh vật được miêu tả từ gần đến xa có chiều cao , chiều rộng , từ những bông hoa trước cửa sổ đến màu nước đỏ cỏ con sông Hồng , vòm trời ,bãi bồi …
– Cảnh vật được cảm nhận bằng những cảm xúc tinh tế : Hoa thưa thớt nhưng đậm sắc , con sông đỏ nhạt , mặt nước rộng ra , vòm trời cao…
– Tất cả đều quen thuộc nhưng anh tưởng như lần đầu tiên cảm nhận được vẻ đẹp về sự giàu có của cuộc sống quanh mình .
b) Những suy ngẫm của Nhĩ từ hoàn cảnh đã phát hiện ra quy luật giống như nghịch lý đời người : ( 2đ )
– Bệnh tật kéo dài trông cậy vào vợ con , Nhĩ bỗng nhận ra thời gian đời mình chẳng còn bao lâu : “ Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không… Hôm nay là ngày mấy rồi ” .
– Lần đầu tiên Nhĩ thấy vợ mặc áo vá , ngón tay gầy guộc , âu yếm vuốt ve vai anh . Nhĩ nhận ra tình yêu thương sự tần tảo và đức hy sinh của vợ “ Nhĩ mới thực sự thấu hiểu với lòng biết ơn người vợ ” .
– Niềm khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông : Khi anh nhận ra vẻ đẹp của cảnh vật rất đỗi bình dị , thân quen cũng là lúc sắp giã từ cuộc đời .
– Niềm khao khát là một sự thức tỉnh lương tâm và chỉ có được ở con người từng trải , cuối đời , đó còn là niềm ân hận xót xa : “ Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải , đã từng in gót chân đi khắp mọi chân trời xa lạ mới thấy hết sự giầu có lẫn vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia ” .
c) Câu truyện của Nhĩ Với cậu con trai là một sự chiêm nghiệm về một quy luật của đời người . ( 1đ )
– Nhĩ nhờ con trai đi sang bên kia sông nhưng đứa con không hiểu được ước muốn ấy nên làm miễn cưỡng và bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn trên đường đi .
– Tâm trạng Nhĩ thất vọng ôm nỗi buồn riêng mà không phiền trách một ai . Nhĩ đau đớn nghiệm ra quy luật nghiệt ngã của đời người : “ Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình ” .
– Chi tiết cuối truyện gợi ra ý nghĩa khái quát thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo mà chúng ta đang sa vào trên đường đời để dứt ra hướng tới những giá trị đích thực vốn giản dị gần gũi , bền vững ở quanh ta .
– Tác giả Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến chúng ta những suy ngẫm triết lý trăn trở để tự nhận thức chính mình , tự nhận thức về cuộc đời này .
d) Thành công của truyện : Là sáng tạo những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng . Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất tạo sức gợi cảm ( 0,5 đ )
đ) Khẳng định : Nhân vật Nhĩ với những cử chỉ và tâm trạng và các nghịch lý tình huống của câu truyện làm rõ nhận xét : Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường những nghịch lý , ngẫu nhiên vượt ra ngoài những dự định và ước muốn cả những hiểu biết và toan tính của người ta .
Đề bài: Trình bày suy nghĩ của em về triết lý sống trong truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.
Nguyễn Minh Châu được xem là nhà văn của những biểu tượng bởi rằng mỗi nhân vật, mỗi sự việc trong từng trang viết của ông đều hướng đến một triết lí, một ý nghĩa nhân sinh nào đó. Người đọc cần phải đọc bằng tâm thì mới có thể nhận ra giá trị đó. Truyện ngắn “Bến quê” là một câu chuyện đầy sức ám ảnh mỗi khi gấp trang sách lại. Ở đó Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm triết lí sống “Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những vòng vèo hay chùng chình”.
Đây chính là triết lí sống trong truyện ngắn Bến quê, là nhân vật Nhĩ đã nhận ra khi anh đang đứng ở bên kia cái dốc của cuộc đời. Phải chăng đây cũng chính là triết lí mà Nguyễn Minh Châu đúc rút nên, vừa mang tính trải nghiệm, vừa mang tính tổng kết cho một đời người. Hẳn rằng phải có sự tinh tế, sự thấu hiểu cũng như sự từng trải, tác giả mới có thể nhận ra chân lí hiển nhiên nhưng lại đầy chua xót và nuối tiếc như vậy.
“Bến quê” là câu chuyện được kể lại qua cái nhìn, chiêm nghiệm của nhân vật Nhĩ, nhân vật trung tâm, nhân vật mà tác giả gửi gắm rất nhiều tâm tư, nguyện vọng cùng những chiêm nghiệm cuộc sống đáng trăn trở. Nguyễn Minh Châu đã đặt ra những nghịch lí, có thể coi đó là những tình huống tạo nên nghịch lí và tạo nên triết lí cuộc sống sâu sắc nhất. Nhân vật Nhĩ được đặt vào một hoàn cảnh rất trớ trêu “suốt đời Nhĩ từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” nhưng đến cuối đời căn bệnh quái ác hành hạ, Nhĩ lại chưa từng đặt chân sang bãi bồi bên kia sông Hồng, nơi gần gũi và thân quen nhất. Đây chính là một nghịch lí cuộc sống đáng suy ngẫm. Cả cuộc đời bôn ba khắp nơi, nhưng cái nơi thân quen và gần gũi nhất, ngay trên quê hương mình lại chưa một lần có cơ hội đặt chân tới. Sự trớ trêu này đã tạo nên ân hận và đầy day dứt trong lòng Nhĩ.
Tuy nhiên vào một buổi sáng, Nhĩ nhận ra mọi thứ quá đỗi thân quen qua ô của sổ, Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông và muốn được đặt chân đến đó trước khi từ giã cuộc đời. Nhưng số phận khắc nghiệt, cuộc sống trớ trêu, Nhĩ lại không thể tự mình làm được cái việc tưởng chừng đơn giản đó. Đây chính là một nghịch lí thứ hai mà người đọc cảm nhận được.
Cuối cùng Nhĩ đã nhờ đứa con trai sang bên đó hộ mình, để ngắm nhìn bãi bồi màu mỡ, phù sa. Nhưng đứa con trai không thể hiểu được điều mà cha mong muốn nên thực hiện một cách miễn cưỡng nhất. Trên chặng được đi, đứa con trai đã không thể vượt qua được cám dỗ của những người chơi cờ, cậu đã mê mải và sà vào đó, quên mất lời cha, có thể sẽ lỡ mất chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Lúc này Nhĩ mới đau đớn nhận ra “Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những cái vòng vèo hay chùng chình”. Cái sự “vòng vèo hay chùng chình” đó chính là cám dỗ mà con người khó có thể vượt qua được. Nếu không có đủ mạnh mẽ, không biết tỉnh táo thì sẽ rất dễ bị cuốn vào vòng xoáy đó. Nhĩ bất lực nhìn con trai và cố vươn tới cửa sổ lấy tay vẫy vẫy, Nhĩ cố dồn chút sức lực cuối cùng để bảo đứa con trai hãy đi đi, đừng để những thứ tầm thường xung quanh mình cám dỗ. Đây chính là triết lí mà đi hết một đời Nhĩ mới nhận ra và thấu hiểu. Nhưng tất cả đều đã muộn rồi, cuộc đời Nhĩ sắp không gượng được bao nhiêu nữa.
Với triết lý sống trong truyện ngắn Bến quê sâu sắc và đầy sức ám ảnh đó. Nguyễn Minh Châu đã gieo vào lòng người đọc nhiều băn khoăn, nhiều trăn trở khi đang bước đi trên chặng đường đời. Liệu rẳng chúng ta có đủ bản lĩnh để vượt qua được những cám dỗ ngọt ngào ở bên ngoài kia hay không. Sự vòng vèo, chùng chình đó có cuốn chúng ta vào, và chúng ta có bỏ lỡ những điều bình dị nhưng tốt đẹp ở trong cuộc đời hay không.
Như vậy với triết lí sống đó, mỗi khi nghĩ đến nhân vật Nhĩ, nghĩ đến cái khoát tay ở cuối truyện; người đọc càng thêm thấm thía hơn, càng thêm trận trọng cuộc sống hiện tai. Những thứ tưởng chừng như rất đỗi bình dị nhưng lại có sức ám ảnh lớn với mỗi người.
Đề : Nhân vật Nhĩ và những suy nghĩ về cuộc đời, về con người trong truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu là một trong số ít những nhà văn khai phá và thành công với công cuộc “tìm kiếm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”. Những tác phẩm của ông giàu chất chiêm nghiệm và tính triết lí khái quát. Nhân vật trong những truyện ngắn của ông thường mang đầy tâm trạng và rất nặng lòng với cuộc đời, với con người sống quanh mình. Nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” cũng nằm trong số ấy.
“Bến quê” là một truyện ngắn được rút trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm được xuất bản năm 1985 tiêu biểu cho sự đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật của tác giả. cốt truyện “Bến quê” rất bình dị, thậm chí “bằng phẳng” nhưng lại mang hàm nghĩa triết lí sâu sắc. Tác phẩm ghi lại những gì mắt thấy tai nghe, những gì cảm nhận suy ngẫm của nhân vật Nhĩ khi nằm trên giường bệnh. Nhĩ được người vợ tần tảo chăm sóc, đươc các cháu hàng xóm sang giúp đỡ, được ông giáo hàng xóm hỏi han. Nhĩ nhờ cậu con trai đi sang bên kia bờ sông giúp bố…
Qua tất cả những điều đó, Nguyễn Minh Châu nói lên những suy nghĩ về con người, về cuộc đời về cách sống, ông nhắc nhở con người phải biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp bình dị của quê hương xứ sở, của nơi chôn rau cắt rốn…
Nhĩ là một người từng đi nhiều nơi trên thế giới: “suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái Đất”. Vậy nên, có thể hiểu rằng, trong anh luôn tràn ngập những cảnh lộng lẫy, nhộn nhịp của bao cảnh phồn hoa, đô hội. Không chỉ thế, chẳng có vẻ đẹp nào tồn tại trên đời nay anh chưa được thưởng thức. Nhưng trớ trêu thay, anh lại một rơi vào một bi kịch của sự sống: anh bị một căn bệnh quái ác hoành hành, phải nằm liệt giường hàng tháng trời nay. Trong nghịch cảnh bi đát ấy, anh chợt phát hiện ra vẻ đẹp chốn quê hương bình dị, đẹp đẽ của mình. Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê thân thuộc nghèo khó của mình lai có một vẻ đẹp bình dị mà quyến rũ. Người vợ tảo tần lam lũ, những người hàng xóm truân chuyên mộc mạc,… ở họ toát lên một vẻ đẹp cao quý đáng trân trọng của tình cảm vợ chồng, tình làng nghĩa xóm ân tinh thắm thiết. Hoàn cảnh nhân vật khẽ nhắc nhở bạn đọc rằng: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lý, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của con người.
Qua những suy nghĩ của nhân vật, Nguyễn Minh Châu còn muốn mang đến cho bạn đọc một chiêm nghiệm khác: “con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Ta rời xa gia đình, quê hương bản quán để lên đường mải mê tìm kiếm những điều kì vĩ đâu đâu mà để đến cuối đời hiểu ra rằng ta đã rời bỏ những điều ta hằng tìm kiếm. Chính sự giàu có lẫn một vẻ đẹp rất gần gũi như cái bãi bồi bên kia sông hay người vợ tảo tần, giàu tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới cảm nhận, thấm thía được.
Trong buổi sáng đầu thu, khi sắp từ giã cõi đời, Nhĩ bỗng phát hiện ra những vẻ đẹp mà trước đây, dù có điều kiện đi khắp thế giới, anh đã không thể nhận thấy được. Đó là một không gian có chiều sâu và bề rộng: từ những bông bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, vòm trời và bãi bồi bên kia sông. Đó là một cảnh đẹp chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế: những chùm hoa thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn, mặt sông Hồng như rộng thêm ra, vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông…”. Những cảnh sắc ấy vốn rất quen thuộc, gần gũi nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh mới gặp.
Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống, những giá trị thường bị người ta bỏ qua hay lãng quên khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn, đang lấn át. Trong hoàn cảnh cùa Nhĩ, đó là sự thức tỉnh xen lẫn với niềm ân hận và nỗi xót xa.
Khi miêu tả tâm lý của nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo. Điều đó được thể hiện ngay từ cách lựa chọn và xử lý tình huống. Trong văn học, nhiều tác giả cũng đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh hiểm nghèo để làm nổi bật lên khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người hay về lòng nhân ái, sự hi sinh cao thượng… Nguyễn Minh Châu đã khai thác tình huống này theo một hướng khác
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, nhân vật suy ngẫm, tự trải nghiệm về cuộc đời với những suy nghĩ sâu sắc.
Những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ về lẽ sống, về cuộc đời, về những con người hết sức cụ thể như người vợ, đứa con và về chính cuộc đời mình. Trong con mắt của một người sắp từ giã cõi đời, cảnh vật trước mắt bỗng đẹp và đáng yêu kỳ lạ. Hôm nay. Nhỉ mới chợt phát hiện ra những vết sờn, những đường vá trên tấm áo của Liên. Và chính hình ảnh người vợ gầy guộc với bàn tay chan chứa yêu thương đã trở thành “nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”. Sự thức nhận của Nhĩ về vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông được tô đậm thêm qua hình ảnh của đứa con – trong hoàn cảnh bình thường — còn mải chơi và thấy bãi bồi bên kia sông chẳng có gì hấp dẫn. Đó chính là tình yêu đối với cuộc sống đã được trải nghiệm qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, đang trải qua những giây phút hiểm nghèo.
Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật với vẻ rất khác thường: “Anh cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày, thế nhưng qua suy nghĩ của Nhĩ trước đó, ta lại nhận ra một ý nghĩa khác: đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái “vòng vèo, chùng chình” để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
Nhân vật Nhĩ mang đến cho người đọc nhiều điều suy nghĩ về cuộc đời và số phận con người. Và với mỗi độ tuổi lại tìm được ở Nhĩ một bài học riêng cho mình. Riêng với thế hệ những người trẻ tuổi, nhờ nhân vật này chúng ta biết sống gắn bó hơn với quê hương, đất nước vẫn còn lam lũ nhưng chất phác, hồn hậu và dào dạt yêu thương của bản thân mình
🔻 Xem thêm: