ÔN TẬP BÀI THƠ “ÔNG ĐỒ”
I/ Tác giả – tác phẩm
1/ Tác giả Vũ Đình Liên
2/ Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời năm 1936.
- Vị trí: Là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ giàu thương cảm Vũ Đình Liên và là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới.
- Thể thơ : ngũ ngôn (5 chữ)
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm + tự sự + miêu tả
- Cảm xúc chủ đạo: qua hình ảnh đáng thương của ông đồ, tác giả đã bộc lộ niềm xót thương đối với một lớp người đang tàn lụi và nỗi nhớ tiếc cảnh cũ người xưa.
- Bố cục: 3 phần
+ Hai khổ đầu: Hình ảnh ông đồ thời đắc ý
+ Hai khổ sau: Hình ảnh ông đồ thời thất thế
+ Khổ cuối: Nỗi niềm của nhà thơ.
II/ PHÂN TÍCH
1/ Hình ảnh ông đồ thời đắc ý
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
a/ Sự xuất hiện của ông đồ
- Mỗi năm hoa đào nở báo hiệu tết đến, xuân về và bên hè phố nhộn nhịp người lại qua thì ông đồ lại xuất hiện cùng với mực tàu, giấy đỏ để viết câu đối.
- Cặp từ mỗi – lại và hình ảnh sóng đôi hoa đào – ông đồ đã cho thấy sự lặp lại đã tạo thành nếp, trở thành quy luật tuần hoàn của thời gian, không gian, con người à sự tồn tại của ông đồ trong xã hội là không thể thiếu, rất quen thuộc với mọi người và góp phần làm nên nét đẹp văn hóa cổ truyền của dân tộc.
b/ Tài năng của ông đồ
– “Bao nhiêu” là số từ chỉ số lượng có tính chất phiếm định, gợi hình ảnh người thuê viết đến rất đông, rất nhiều và ông rất đắt hàng.
– Tài năng của ông đồ được khắc họa qua các nét đặc sắc nghệ thuật: hoán dụ “hoa tay” ( ông đồ rất tài hoa, viết câu đối rất đẹp), so sánh (những nét chữ như phượng múa, rồng bay) và cả thành ngữ (phượng múa rồng bay). Những nét chữ rất đẹp, bay bướm, uốn lượn , vừa phong khoáng, bay bổng, vừa oai phong, sống động, có hồn.
- Ông đồ được mọi người quý trọng và ngưỡng mộ. Ông là trung tâm của mọi sự chú ý. Ông được sáng tạo và sự sáng tạo của ông là có ích cho mọi người.
- Đây thực sự là những ngày huy hoàng, đắc ý nhất của ông đồ khi chữ Nho vẫn thịnh hành, chữ thánh hiền vẫn được coi trọng.
2/ Hình ảnh ông đồ thời thất thế
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
– Chữ “nhưng” mở đầu khổ thơ đã tạo nên sự tương phản giữa xưa và nay:
+ Xưa: Bao nhiêu người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài năng của ông đồ. Ông đồ là nhân vật trung tâm của bức tranh xuân.
+ Nay: Mỗi năm mỗi vắng, ông đồ xuất hiện trong cảnh tượng vắng vẻ, thưa dần. Ông đã bị gạt ra bên lề của cuộc sống.
– Nỗi buồn của lòng người đã thấm sang cảnh vật. Biện pháp nhân hóa khiến cho giấy, mực cũng như mang nặng nỗi niềm của con người. Tờ giấy đỏ cứ phơi ra đấy, chẳng được đụng đến bỗng trở nên bẽ bàng, vô duyên; nghiên mực chẳng được bút lông chấm vào nên đọng lại trong nỗi sầu tủi, đáng thương.
– Ông đồ vẫn ngồi đấy, vẫn không thay đổi, vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với đời nhưng mọi người đã thay đổi, đã phủ nhận ông, không còn ai hay, ai biết đến ông. Ông trở nên xa lạ, lẻ loi, lạc lõng giữa dòng đời.
– Nhà thơ đã dùng bút pháp tả cảnh ngụ tình, lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh:
+ Lá vàng là hình ảnh ẩn dụ cho sự tàn tạ, buồn bã, rơi rụng. Lá vàng lại rơi trên những tờ giấy viết câu đối của ông đồ phải chăng chính là dấu hiệu báo trước cho sự tàn lụi của cả một thời Nho học huy hoàng.
+ Mưa bụi: mưa nhỏ, nhẹ, bay lất phất của mùa xuân nhưng sao nay nghe rả rích, dầm dề, gợi sự lạnh lẽo, ảm đạm, thê lương như xóa nhòa đi hình ảnh ông đồ.
=>Ông đồ bị bỏ rơi, bị quên lãng theo thời gian.
3/ Tâm sự, nỗi niềm của nhà thơ
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
– Hoa đào lại nở, tết lại đến, xuân lại về, thiên nhiên đất trời vẫn tuần hoàn nhưng ông đồ thì không còn nữa. Hình ảnh thơ đã gợi lên niềm xót xa, thương cảm cho một lớp người thất thế.
– Từ hình ảnh ông đồ, thi sĩ đã liên tưởng tới “những người muôn năm cũ” và tự vấn. Câu hỏi tu từ “Hồn ở đâu bây giờ?” tiềm ẩn sự ngậm ngùi, day dứt. Đó là niềm trắc ẩn, xót thương cho nhưng người như ông đồ đã bị thời thế khước từ.
III/ TỔNG KẾT – Ghi nhớ sgk.
🔻 Xem thêm: