ĐÂY THÔN VĨ DẠ
– Hàn Mặc Tử-
I/ MỞ BÀI
Nếu nhân loại không còn khao khát nữa
Và nhà thơ – nghề chẳng kẻ nào yêu
Người – Thi sĩ – cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử
Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ.
(Trần Ninh Hổ)
Trên bầu trời rực rỡ các vì sao của phong trào thơ mới 1930 – 1945, Hàn Mặc Tử tựa hồ như một ngôi sao chói lọi và là nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất. Thơ Hàn Mặc Tử có phần siêu thực, thể hiện cuộc vật lộn giữa tinh thần và thể xác với những vần thơ điên loạn, ma quái. Diện mạo thơ hết sức phức tạp, đầy bí ẩn, ngập tràn ý tưởng về hồn, trăng và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng dù vậy, thơ ông vẫn thấm đượm một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. Không ai có thể tưởng tượng ra rằng giữa một rừng thơ ma quái và kì dị của Hàn lại có thể mọc lên những bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Một trong những bông hoa ấy được thi sĩ đặt tên là “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ được sáng tác năm 1938, in trong tập “Thơ điên” sau đổi thành “Đau thương”, là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của con người tha thiết yêu đời, yêu người.
II/ THÂN BÀI
1/ Khái quát
a/ Giới thiệu về thôn Vĩ, xứ Huế
Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã nhắc đến địa danh thôn Vĩ Dạ. Thôn Vĩ nằm ở ngoại vi thành phố Huế, bên bờ sông Hương hiền hòa, thơ mộng. Ở đây, cây cối xanh tươi bốn mùa, có dòng sông xanh, có những thiếu nữ thướt tha duyên dáng. Ấn tượng đặc biệt về Vỹ Dạ nữa là lối kiến trúc nhà vườn, trong đó nhà thường nằm ở giữa vườn, xung quanh là cây cối xanh tươi. Vĩ Dạ có một khung cảnh thơ mộng nên các quan chức thời Pháp thuộc từng về đây thường về đây để nghỉ ngơi vào dịp cuối tuần. Vĩ dạ cũng được nhiều tao nhân mặc khách ghé thăm năm và có nhiều thi sĩ đã làm thơ về Vĩ Dạ:
Vĩ Dạ Thôn! Vĩ Dạ thôn!
Biếc che cần trúc không buồn mà say
(Bích Khê)
Nếu có dịp du lịch thôn Vĩ Dạ vào buổi sáng sớm, khi những tia nắng vừa lên chưa làm tan được sương sớm vẫn tỏa trên mặt sông, nhạt nhòa một màu hư ảo, bạn có thể hiểu vì sao Hàn thi sĩ đã phải thốt lên: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”.
Bửu Cầm thời còn là thư sinh, yêu vẻ đẹp Vỹ Dạ và thường rủ bạn bè về chơi:
Về thôn Vỹ Dạ với anh đi
Anh dạy cho em biết cảm si
Biết hát Nam ai, hò Mái đẩy
Biết đàn biết địch biết ngâm thi.
Vĩ Dạ mang vẻ đẹp đầy chất Huế và trong thơ vẻ đẹp duyên dáng của các cô gái Huế hòa lẫn vào vẻ đẹp của cảnh vật nơi này:
Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng
Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai
Ven dòng sông phẳng con đò mộng
Lả lướt đi về trong nắng mai.
b/ Hoàn cảnh ra đời
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt, đó là nó gắn với tình yêu đầu đơn phương, tuyệt vọng chưa từng thổ lộ của thi sĩ với người con gái Huế, quê ở Vĩ Dạ có tên là Hoàng Thị Kim Cúc. Hàn Mặc Tử biết Hoàng Cúc khi khi ông đang làm nhân viên ở sở đạc điền ở Quy Nhơn. Ông yêu thầm nhớ trộm Hoàng Cúc nhưng chỉ dám bộc bạch với bạn bè và làm thơ. Năm 1939, khi Hàn Mặc Tử mắc đã bệnh nan y, một người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử cũng là em họ của Hoàng Cúc đã nhắc nhở và thúc giục Hoàng Cúc viết thư thăm hỏi thi sĩ. Sau đó, Hoàng Cúc đã gửi tặng thi sĩ một tấm bưu thiếp. Tấm bưu thiếp là một bức tranh phong cảnh, có cảnh sông nước với một cô gái đang chèo đò, lòa xòa vài cảnh tre trúc. Ở phía trên là hình ảnh mặt trăng hay mặt trời, vì thế không rõ bức tranh là cảnh bình minh hay hoàng hôn. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.
Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn thì bất ngờ nhận được tấm bưu thiếp ấy của Hoàng Cúc gửi từ thôn Vĩ Dạ. Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó giúp nhà thơ được sống trong tình yêu và muốn được tâm tình với người trong mộng. Bao cảm xúc ùa về dẫn đến một cuộc hành hương về xứ Huế trong tâm tưởng. Vì thế mà, kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã ra đời.
2/ Phân tích
a/ Khổ thơ 1: Lời trách móc yêu thương và bình minh ở những khu vườn Vĩ Dạ
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu thơ là một câu hỏi ấy mang một âm sắc đặc biệt bởi đa số các chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc đầy mộng và thơ cho toàn bộ tác phẩm. Đó có thể là câu hỏi của một cô gái, của người xưa hay của một ai đó ở Vĩ dạ với chủ thể “anh”. Vì nhớ mong mà cô gái Vĩ Dạ có ý trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc người bạn cũ về thăm xứ Huế. Nhưng hiểu như vậy thì có vẻ không đúng lắm, bởi khi đó nhà thơ đã mắc căn bệnh nan y, phải sống cách ly với thế giới bên ngoài, ai lại nỡ buông lời trách móc. Kết hợp với các khổ thơ sau của bài thơ cuối với mạch thơ là sự tự giãi bày tâm trạng của tác giả thì ta nên hiểu đây là câu hỏi mà tác giả dành cho chính mình. Khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc, những ký ức còn tươi nguyên của tác giả về thôn Vĩ bỗng dưng sống lại. Thế nên, tác giả đã tự hỏi lòng mình rằng thôn Vĩ đáng yêu đến thế, thơ mộng là thế mà sao lâu lắm mình chưa về thăm? Câu thơ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại Vĩ Dạ một lần và bởi không thực hiện được chuyến đi ấy nên Hàn Mặc Tử đã về thăm Vĩ Dạ qua tâm tưởng và tạo nên những câu thơ rất đẹp, đầy mộng ảo về Vĩ Dạ.
Sau câu thơ đầu là câu hỏi tu từ thì ba câu thơ còn lại của khổ thơ thứ nhất là cảnh vườn tược Vĩ dạ vào lúc hừng động. Phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ được mở ra trong buổi sớm mai thanh khiết, dịu dàng với những nét vẽ tươi tắn và trong đó mỗi câu thơ là một chi tiết vườn. Trước tiên đó là vẻ đẹp của nắng “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ở những bài thơ trong trẻo, Hàn Mặc Tử thường xuyên miêu tả nắng như:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan”
Hoặc:
“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Cái nắng trong những câu thơ trên được miêu tả rất cụ thể bằng các tính từ chỉ mức độ nắng là “nắng ửng”, “nắng chang chang”. Còn trong bài thơ này, cái nắng được gợi lên qua hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ có nhiều sức gợi, kết hợp với cụm từ “mới lên” khiến người đọc có thể liên tưởng đó là cái nắng mới chớm, cái nắng mới chỉ bắt đầu vào buổi sớm mai.
Cái nắng mới chớm của buổi sớm mai ấy chiếu trên những hàng cau Vĩ dạ. Cau là loại cây rất thân thuộc với mọi làng quê Việt Nam, gắn với phong tục ăn trầu của người Việt từ ngàn đời nay. Trầu cau còn là biểu tượng của tình yêu đôi lứa đơm hoa kết trái. Nguyễn Bính, một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh trầu cau quen thuộc ấy:
Nhà anh có một hàng cau
Nhà em có một giàn trầu
Rồi ông lại viết:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào
Đặc điểm của giống cây cau là dáng mảnh, tán cao vượt lên trên các tán cây khác trong vườn nên đến Vĩ Dạ từ xa lữ khách sẽ thấy những hàng cau trước tiên. Tác giả ở đây đã thể hiện rằng mình rất sành Vĩ Dạ bởi ở Vĩ Dạ người ta hay trồng cau, mỗi nhà thường trồng một hay vài hàng cau ở trước nhà. Vào lúc hừng đông, ánh nắng ban mai chiếu xuống những hàng cau thành “nắng hàng cau”, ánh nắng phản chiếu trên những đọt cau non còn đẫm sương đêm sáng lấp lánh.
Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên với vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy sức sống “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Lưu Trọng Lư nhận định “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi”. Nhận xét của nhà thơ thật đúng với trường hợp câu thơ này, bởi “vườn ai” có tính chất phiếm chỉ, không rõ là vườn em, vườn anh hay là vườn của ai đó. Ngoài ra, câu thơ còn gợi liên tưởng một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ. Chỉ một chữ “mướt” thôi đã gợi hình ảnh cây cối xanh tươi mơn mởn, lại kết hợp với từ tình thái “quá” thành “mướt quá” có ý nghĩa cực tả sự xanh tươi, óng ả, đầy sức sống. Nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc” cũng góp phần nhấn mạnh thêm vẻ đẹp của khu vườn. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát. Cả khu vườn như một viên ngọc đính giữa bầu trời Vĩ Dạ. Màu xanh ngọc ngà của cây lá ấy cũng được Xuân Diệu miêu tả:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
Những khu vườn thôn Vĩ không chỉ rời rợi sắc xanh là còn tỏa vào không gian ánh xanh khiến bức tranh cảnh vật thật đơn sơ mà lộng lẫy, gợi cho người ta cảm giác dường như đêm qua đã có một cơn mưa hay đã có một bàn tay ai đó đã gột rửa, lau chùi đến từng nhành cây ngọn lá để sớm hôm nay khi bình minh ló rạng, cả khu vườn mới bóng lên, óng ả, mỡ màng đến thế. Câu thơ như vậy còn như một lời buột miệng trầm trồ, thán phục, ngợi ca vẻ đẹp của khu vườn rồi thầm cảm ơn chủ nhân của những khu vườn đã dày công chăm sóc làm cho khu vườn thêm xinh đẹp. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến thế.
Cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre thường được trồng trước ngõ. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa” của văn học trung đại với những nét vẽ rất thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu thấp thoáng giữa những khu vườn Vĩ Dạ. Vẻ đẹp của khuôn mặt chữ điền ấy đã từng được ca ngợi trong ca dao:
Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung
Lá trúc thì mảnh mai, thanh tao, gương mặt chữ điền thì vuông vắn và gợi sự phúc hậu, dịu dàng, đáng yêu, mến khách của người Vĩ Dạ. Đáng chú ý là sự xuất hiện của con người ở đây đã thổi thêm một luồng sinh khí mới, tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật, gợi nên cái thần thái, cái hồn của quê hương, xứ sở.
Hơn nữa, viết về trúc, về khuôn mặt chữ điền” là dường như thi sĩ đang muốn thầm thì với người trong mộng như cách ông viết trong bài thơ “Mùa xuân chín”:
“Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Sắp xếp hệ thống lại ta thấy cả bốn câu thơ trong khổ thơ đầu thực ra là một cấu trúc hỏi. Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ Khi ông đã mắc bệnh nan y bị cách ly với thế giới bên ngoài nên hình ảnh thôn Vĩ chỉ còn trong ký ức, chỉ còn là hoài niệm đi về trong tâm tưởng để thi sĩ tự sưởi ấm lòng mình. Bởi vậy cảnh vật dù có tươi đẹp nhưng vẫn thấm đẫm một nỗi buồn sâu lắng. Với cấu trúc hỏi này, nhà thơ đã tự hỏi lòng mình, tự trách móc mình là thôn Vĩ đẹp và thơ mộng, người thôn Vĩ đáng yêu, mến khách là thế mà sao mình không thể về thăm. Trong cấu trúc hỏi ấy, người đọc còn có thể nhận thấy một chút ngạc nhiên và rất nhiều phần nuối tiếc. Thi sĩ khát khao được trở về thôn Vĩ nhưng dường như lại đã dự cảm đớn đau về cuộc đời bất hạnh, bây giờ “anh” đã không về thăm thì có lẽ sau này cũng không thể về được nữa. Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, chắc đành phải lỡ hẹn với Vĩ dạ và người xưa.
b/ Khổ thơ 2: Cảnh sông Hương vào một đêm trăng và khát khao, dự cảm của thi sĩ
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hừng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng. Bức bưu thiếp và lời thăm hỏi của Hoàng Cúc đã làm sống dậy trong lòng Hàn Mặc Tử khát khao được trở về với thế giới của mọi người, trở lại với cuộc đời tươi đẹp với ước mơ hạnh phúc, tình yêu. Nhưng thực tại lại đầy bi thương, éo le, bất hạnh đã khiến bài thơ không chỉ là bức tranh cảnh vật Vĩ Dạ đáng yêu thơ mộng nhưng mà còn là thông điệp về một tình yêu đơn phương, tuyệt vọng.
Hai câu thơ trước hết miêu tả cảnh vật dòng sông Hương ở Vĩ Dạ. Sông Hương, núi Ngự là những hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp của xứ Huế. Sông Hương bao đời chảy lặng lờ chầm chậm được gợi lên qua hình ảnh “dòng nước buồn thiu”. Điệu chảy chậm của Hương giang từng được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả “chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, là “điệu Slow tình cảm” mà dòng sông Hương dành riêng cho người tình trong mộng của nó là xứ Huế. Cảnh vật rất đẹp và thơ mộng bởi có gió, có mây, có dòng nước, hoa bắp lay. Hai bên bờ sông là những vườn bắp, có gió nhưng là gió nhẹ chỉ đủ làm những bông hoa ngô nhẹ nhàng lay động, khe khẽ đung đưa trước gió. Điều đáng chú ý ở những câu thơ này là bằng những hình ảnh như gió mây nhè nhẹ trôi, sông Hương lững lờ chảy, hoa bắp sẽ sàng đung đưa theo gió, tác giả khắc họa hết sức thành công nhịp điệu khoan thai, dịu dàng của xứ Huế. Khổ thơ cho ta thấy khí vị riêng của xứ Huế mà như nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh đã nhận xét rất tinh tế: “Ngắm cảnh Huế, người ta khó tránh khỏi được cái buồn vớ vẩn. Nó là khí vị riêng của xứ này”.
Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng về thân phận. Đến với bài thơ, ta cảm được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng như khổ thơ này không chỉ là bức tranh thiên nhiên mang đậm hồn cốt xứ sở mà sâu sắc hơn chính là để thể hiện “tiếng lòng”, “thân phận”, “tình thế” của nhà thơ. Hai câu thơ đầu của khổ thơ không chỉ là bức tranh ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, ẩn chứa trong đó là bao nhiêu tâm trạng của thi sĩ. Mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái nơi thôn Vĩ hầu như đã rơi vào tuyệt vọng và có lẽ vì vậy mà hai câu thơ chứa đầy nỗi buồn. Nỗi buồn không chỉ được thể hiện trực tiếp ở từ “buồn thiu” mà còn thể hiện qua sự chia lìa, phủ khắp cả cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp…. Tất cả dường như đang bỏ đi, gió bay đi một đường, mây đi theo một nẻo, dòng nước thì cũng đang trôi đi theo một đường khác. Có cái gì đó như trớ trêu, ngang trái vì gió và mây vốn là bạn đồng hành, thông thường gió thổi thì mây bay. Gió và mây vốn không thể đi khác đường, ấy vậy mà ở đây mặc cảm đã chia lìa những thứ vốn tưởng không thể chia lìa, tách rời. Với nghệ thuật sử dụng hình ảnh, tương phản, đối lập và cách ngắt nhịp 4/3 quen thuộc, Hàn Mặc Tử đã thể hiện một ấn tượng sâu sắc về sự chia lìa. Những câu thơ này ít nhiều gợi ta nhớ đến hai câu thơ của nhà thơ Thế Lữ:
Anh đi đằng anh anh, tôi đi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi!
Gió đi một đường, mây đi một nẻo, nước cũng đi lối khác nên cảnh vật gợi buồn. Nhưng ấn tượng về nỗi buồn và sự tuyệt vọng còn được thể hiện ở hình ảnh “hoa bắp lay”. Hình ảnh hoa ngô lay lay trước gió trong câu thơ sao mà gợi buồn đến thế. Có lẽ nỗi buồn của mây nước đã xâm chiếm vào nó, mà cũng có thể bắt nguồn từ một từ “lay” buồn như thế trong ca dao:
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Nhà thơ Trúc Thông trong bài thơ “Bờ sông vẫn gió” cũng thể hiện một từ “lay” đầy tâm trạng:
Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió người không thấy về.
Vẫn là bức tranh sông Hương ở Vĩ Dạ nhưng thi nhân đã đưa người đọc vào cõi mộng với không gian ngập đầy ánh trăng. Hàn Mặc Tử là một thi sĩ rất yêu trăng và ông từng viết rất nhiều về trăng:
Ai mua trăng không tôi bán trăng cho
Không bán tình duyên ước hẹn hò
Trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
Hoặc:
Say! Say lảo đảo cả trời thơ
Gió rít tầng cao trăng ngả ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng.
(Say trăng- Hàn Mặc Tử)
Ánh trăng vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở chốn cô đơn này. Trăng là hiện thân của cuộc đời trần thế tươi đẹp, là cái đẹp của cuộc đời, là tình đời, tình người mà tác giả khao khát. Khung cảnh sông Hương trong khổ thơ cũng ngập đầy ánh trăng, trăng bàng bạc khắp không gian với hai hình ảnh sông trăng và thuyền trăng. Đây là hai hình ảnh thơ thể hiện sức sáng tạo mãnh liệt của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Sự tài hoa và tâm hồn lãng mạn của thi sĩ đã tạo nên những hình ảnh thơ thi vị, trôi giữa hư và thực. Ánh trăng tràn ngập khắp vũ trụ và đang tan mình trong dòng nước nên sông thành sông trăng, thuyền ngập đầy ánh trăng lên hóa thành thuyền chở trăng. Trăng xuất hiện rất diễm lệ khiến người ta ngỡ ngàng và muốn biết rõ đây là hình ảnh thực của đêm trăng sông Hương hay là hình ảnh của cõi mộng? Có lẽ là cả hai vì đó là những hình ảnh thật về cảnh vật sông Hương vào đêm trăng nhưng đó cũng là mơ ước khiến người đọc có cảm giác như lạc vào trong cõi mộng.
Nếu chỉ hiểu hai câu thơ như thế thôi thì chưa đủ, vì dường như trong hai hình ảnh sông trăng và thuyền trăng của cõi mơ kia còn ẩn chứa bao nỗi niềm, ước mơ, khát vọng của nhà thơ. Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều chịu ảnh hưởng của trường thơ tượng trưng siêu thực từ phương Tây nên vì thế ở đây có những ngôn từ, hình ảnh khó nắm bắt. Một đại từ “ai” phiếm chỉ khiến người đọc buộc phải liên tưởng. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, là con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước, chờ đợi nó ngược dòng trở về. “Tối nay” cũng không rõ là tối nào, phải chăng nó chính là ranh giới của sự sống và cái chết, là giới hạn cuối cùng trong cuộc chạy đua với thời gian để giành lấy tình yêu, hạnh phúc trần thế của thi sĩ. Qua cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh có tính tượng trưng, siêu thực và giọng thơ khắc khoải cùng với câu thơ “Có chở trăng về kịp tối nay”, đặc biệt với từ “kịp” ta cảm thấy rõ có một sự mong ngóng, đợi chờ, cảm nhận được ước mơ, khát khao hạnh phúc trong tình yêu của thi sĩ. Nhưng mong ngóng, chờ đợi trong lo âu, phấp phỏng và đầy dự cảm về sự nhỡ nhàng, lỡ dở.
=> Từ đây ta có thể thấy hai câu thơ không chỉ thể hiện sức sáng tạo mãnh liệt mà còn cho thấy hoàn cảnh đầy bất hạnh của nhà thơ Hàn Mặc Tử, thấy được lòng yêu đời yêu người thiết tha của thi sĩ, thấy cả sự lo lắng của thi sĩ họ Hàn trước sự hữu hạn, bi kịch của đời mình, thắc thỏm, lo sợ rằng liệu bản thân còn kịp được yêu đời, yêu người hay cuộc đời còn lại chỉ còn là nuối tiếc. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc thi sĩ trở về với cõi vĩnh hằng hay không?
Bốn câu thơ giúp người đọc cảm nhận rõ vẻ đẹp của cảnh vật sông Hương vào một đêm trăng. Bức tranh thiên nhiên đẹp, gợi cảm, vừa thực vừa mộng trong đó phần mộng dường như lấn át phần thực và nhìn chung rất gợi buồn. Sự chuyển động của gió mây, dòng nước, thuyền không theo xu thế vận động của tự nhiên mà có sự tương phản. Tất cả đều bỏ đi theo các hướng khác nhau chỉ có trăng là ngược đường trở lại. Sự tương phản này gợi sự chia lìa và chứa đầy nghịch cảnh trái ngang khiến chúng ta liên tưởng đến cuộc đời bất hạnh và mối tình đơn phương tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử với người xưa nơi thôn Vĩ. Tuy vậy, ở đây vẫn vút lên tình yêu với cuộc đời trần thế. Những câu thơ này thực sự đã được viết ra từ một tâm hồn đau khổ nhưng vẫn đầy ước mơ khát vọng và luôn gắn bó thiết tha với cuộc đời và con người. Nhịp điệu của khổ thơ góp phần thể hiện cảm xúc trầm lắng, u hoài, tha thiết. Biện pháp nhân hóa được sử dụng khá phổ biến ở hầu hết các hình ảnh thơ và cách sử dụng câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” cùng những hình ảnh thơ tài hoa, thể thơ bảy chữ … đều góp phần làm ngôn ngữ thơ trở nên giàu cảm xúc, tinh tế, bộc lộ sâu sắc tâm trạng của nhà thơ.
c/ Khổ thơ 3: Hình ảnh con người Vĩ Dạ và sự hoài nghi về tình người thôn Vĩ
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khổ thơ thứ ba viết về con người Vĩ Dạ, con người xứ Huế. Trong toàn bài thơ, hình ảnh con người đã hiện thấp thoáng trong nhiều câu thơ như:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Hay:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Hoặc nhiều lần ẩn hiện qua ra từ “ai” có tính chất phiếm chỉ như “vườn ai”, “thuyền ai” và đến khổ thơ này là “tình ai”, “khách đường xa”, “em”. Dù không được miêu tả trực tiếp nhưng những câu thơ, từ ngữ, hình ảnh nêu trên đủ để ta mường tượng về hình ảnh con người Vĩ Dạ, con người xứ Huế vừa đẹp vừa duyên dáng, đáng yêu, đáng quý.
Raxun Gamzatop đã từng nói “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình-nghĩa là trở thành nhà thơ”. Và có lẽ thực và mộng là bút pháp riêng của Hàn Mặc Tử trong bài thơ này. Ngay cả hình ảnh con người được gợi lên trong khổ thơ cũng vừa hư vừa thực.
Khổ thơ được bắt đầu bằng một từ “Mơ”. Từ mơ trong ngữ cảnh này có hai cách hiểu, mơ là giấc mơ cũng có thể là mong ước, ước mơ. Dù hiểu theo cách nào thì từ mơ cũng gọi trạng thái khao khát và ngoài ra nhấn mạnh thêm sự xa cách, khó với tới. Cụm từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần trong câu thơ thể hiện rõ có sự xuất hiện của con người dù sự xuất hiện này có thể chỉ ở trong mơ ước. Nhưng khách đừng xa là ai thì không xác định. Nếu khổ thơ thứ nhất ta đã cho rằng chủ thể trữ tình trong bài thơ là tác giả thì người khách đường xa ấy có thể là con người của xứ Huế mộng mơ, cũng có thể là người xưa nơi thôn Vĩ mà tác giả đang mong ngóng. Khao khát hướng về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên rõ nét, ấy là khao khát về hơi ấm tình người. Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Khao khát ấy được thể hiện bằng việc mong có một hình bóng giai nhân, là người trong mộng bấy lâu nay. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm không thể xóa nhà vẫn làm điên đảo mộng thi ca:
“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng?”
Thế nhưng chỉ là mơ, chỉ là khách đường xa, chỉ là một cảm giác xa lạ, tuột khỏi tầm với. Giai nhân càng lúc càng trở nên xa vời và càng không níu kéo được nên Hàn càng chỉ biết gửi gắm khát khao vào giấc mơ. Ta còn có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.
Đến hai câu thơ này thì hình ảnh con người Vĩ Dạ, con người của xứ Huế mộng và thơ được kết tinh trong hình ảnh những thiếu nữ Huế mà tác giả gọi là “em”. “Em” có thể là cô gái Huế mà những thiếu nữ Huế xưa nay đã làm say đắm bao nhiêu tao nhân mặt khách:
Học trò trò xứ Quảng đi thi
Gặp cô gái Huế bước đi sao đành
Người ta thường nói Huế trắng và Huế tím để chỉ màu áo của các cô gái Huế và ở đây hình ảnh những thiếu nữ Huế được nhắc đến trong màu áo trắng. Cụm từ “trắng quá” đã cực tả màu áo trắng, làm nổi bật lên vẻ tinh khôi của màu áo và vẻ đẹp dịu dàng của các cô gái Huế. Áo của các cô thiếu nữ màu trắng mà Huế là xứ sở của sương khói nên màu áo lẫn trong màu sương, hư hư thực thực, làm cho nhân ảnh của các cô trở nên mờ mờ và “nhìn không ra”. Câu thơ đã gợi ra vẻ đẹp rất riêng của xứ Huế mộng mơ, một mảnh đất nhiều sương khói mơ màng, gợi những tà áo trắng của nữ sinh Đồng Khánh duyên dáng một thời.
Nhà thơ nói “ở đây” là nói về mình và thế giới của mình khiến hai câu thơ không chỉ là hình ảnh của cõi thực mà còn là hình ảnh của cõi mộng trong tâm tưởng của nhà thơ. “Em” ở đây còn có thể chính là người trong mộng, người mà thi sĩ ấp ủ trong tim bấy lâu, là hạnh phúc mà thi sĩ vẫn thường hướng đến và mong giữ lại bên mình. Đại từ “em” thật giản dị, gần gũi biết bao: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì ngay sau đó Hàn Mặc Tử đã cảm nhận được sự tuyệt vọng, càng muốn giữ lại thì người trong mộng càng xa vời và không thể nào có được. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Dường như với Hàn Mặc Tử, bóng người con gái ấy cứ hút mãi, xa mãi và cuối cùng chỉ là bóng dáng khát khao, mơ ước của thi nhân. Và để rồi bóng dáng ấy chỉ còn là ấn tượng về một tà áo trắng, thanh khiết.
Dù em là những thiếu nữ Huế hay là người xưa nơi thôn Vĩ e lệ, dịu dàng trong màu áo trắng thì sau cùng vẫn đó vẫn là nhân vật trữ tình mà thi sĩ muốn nói tới để thể hiện tình yêu, sự gắn bó của mình với một vùng đất thơ mộng, đẹp người, đẹp núi, đẹp sông. Những câu thơ vì thế bộc lộ rõ cái tôi trữ tình đau thương và khao khát tình đời, tình người và trước sau vẫn là biểu hiện của một tâm hồn yêu đời đến đau thương và tuyệt vọng.
Câu thơ cuối cùng được bắt đầu bằng một từ “ai” và riêng trong câu thơ từ “ai” được lặp lại hai lần, trong cả bài thơ thì được lặp lại 4 lần. Từ “ai” đã góp phần tạo âm hưởng trữ tình, sâu lắng cho cả bài thơ và hình như nó được bắt nguồn trong một từ “ai” quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca của xứ này:
Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu
Nong tằm, ao cá nương dâu
Cây đa bến cũ nhớ câu hẹn hò
Cả câu thơ là một câu hỏi mà tác giả sử dụng từ đến hai từ “ai” nên không thể xác định là câu hỏi của ai dành cho ai. Người đọc thơ vì thế có thể hiểu theo nhiều liên tưởng khác nhau, có thể là tác giả hỏi các cô gái Huế hoặc hỏi người xưa nơi thôn Vĩ mà cũng có thể đó là câu hỏi mà tác giả đặt ra cho chính mình. Các cô giải Huế thế xuất hiện trong mẫu áo trắng, nhân ảnh chỉ mờ mờ lẫn trong sương khói. Bởi vậy, thi sĩ đặt câu hỏi rằng liệu tình cảm của các cô có đậm đà hay không hay cũng chỉ mờ mờ như nhân ảnh. Khoảng cách giữa tác giả với người xưa nơi thôn Vĩ bây giờ là một khoảng cách rất xa. Đó không chỉ là khoảng cách về không gian mà còn là khoảng cách về thời gian, khoảng cách của số phận. Hình ảnh người con gái ấy giờ đây chỉ còn là trong hoài niệm nên đã trở thành nhạt nhòa, lẫn trong sương khói kí ức, như trong cõi mộng. Bởi hình ảnh người xưa nơi thôn Vĩ bây giờ ít nhiều đã mờ nhòa trong ký ức nên tác giả đặt câu hỏi không biết tình cảm của người xưa với mình có còn đậm đà không? Mặt khác, tác giả cũng tự hỏi chính mình rằng tình cảm của mình với cô gái Vĩ Dạ ngày xưa có vượt qua được thời gian và không gian để còn đậm đà hay không không?
Có lẽ đời này đã định hai người không chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vô tung vô ảnh, còn thi nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân không thể hòa nhập vào với thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một thế giới mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với cái chết cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ông vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi đau đớn không tưởng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng. Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về “Thơ Điên” của Hàn Mặc Tử để nói về “Đây thôn Vĩ Dạ”: “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế”. Hoặc ý kiến khác thì cho rằng thơ Hàn Mặc Từ có “Lời thơ như dính máu”. Tuy nhiên, nếu mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, thì riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại hướng ta đến những giá trị nhân văn cao cả.
III. KẾT LUẬN
Với thể thơ thất ngôn, những hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ tinh tế, giàu tâm trạng và liên tưởng, âm điệu, nhịp thơ trong sáng, thiết tha kết hợp các biện pháp tu từ như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… Bằng ngòi bút tài hoa, đường nét mềm mại, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra bức tranh thiên nhiên và con người xứ Huế đầy sức sống, một bức tranh toàn bích hòa quyện giữa thực và ảo, giữa tâm tưởng và ước mong. Qua đó, tác giả muốn bộc lộ tình cảm mãnh liệt của mình với thiên nhiên, với con người cùng niềm ham sống, khao khát sống của mình. Sáng tác bài thơ trong hoàn cảnh cái chết cận kề. Song, cái ta bắt gặp vẫn là tình yêu, niềm thiết tha gắn bó với thiên nhiên, con người và sự sống. Bởi vậy, bài thơ xét cho cùng là một thi phẩm về tình yêu đôi lứa, tình yêu cuộc sống nhưng hơn nữa cũng là tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Hàn Mặc Tử xứng đáng là tài năng xuất sắc của thơ ca Việt Nam 1930 – 1945. “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình” (Chế Lan Viên). “Đây thôn Vĩ Dạ” tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử có khuynh hướng hướng nội mà nói như Trần Đăng Khoa thì Hàn Mặc Tử thường không nhìn bằng mắt mà “nhìn thấy bằng tâm tưởng”. Bài thơ mặc dù đã ra đời từ lâu nhưng ngày nay vẫn để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc, xứng đáng được xếp vào một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại.
🔻 Xem thêm: