Site icon Lớp Văn Cô Thu

[Ngữ văn 11] Cảm nhận nhân vật Đan Thiềm

Cảm nhận nhân vật Đan Thiềm trong đoạn trích kịch “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài”

I/ Mở bài :

Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà viết kịch lớn nhất thế kỉ XX của Việt Nam với văn phong vừa giản dị, trong sảng, vừa đôn hậu thâm trầm, sâu sắc. Ông có thiên hướng khai thác đề tài Ịịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể ioại tiểu thuyết và kịch. Và “Vũ Như Tô” là vờ kịch lịch sử có qui mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941, dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Tác phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ xây đài với Vũ Như Tô và bạo chúa Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản. Biết tin có binh biển, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục chàng đi trốn. Trong đoạn trích được học, bên cạnh Vũ Như Tô, nhân vật Đan Thiềm đã đế lại nhiêu day dứt trong lòng người đọc.

II/ Thân bài

1/ Giới thiệu chung

Đan Thiềm tuy là nhân vật phụ nhưng góp phân tô đậm nhân vật Vũ Như Tô và làm rõ tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Nhân vật Đan Thiềm mang mùa sắc lãng mạn và lí tưởng nhằm làm nổi bật bản chất nghệ sĩ của Vũ Như Tô, đẩy xung đột kịch tới cao trào. Đan Thiềm là người cung nữ say mê cái đẹp, trân trọng người tài; thấu hiểu lẽ đời nhưng gặp phải bi kịch.

2/ Đặc điểm

a/ Người cung nữ say mê cái đẹp và trân trọng người tài

Vũ Như Tô là người nghệ sĩ có tài, có nhân cách, kiên quyết không xây Cửu Trùng Đài bởi đó là chốn ăn chơi sa đọa của vua chúa. Nhưng nểu làm thế thì người nghệ sĩ này có thể bị giết, bị tru di. Trước tỉnh cảnh đó, Đan Thiềm đã khuyên ông “không nên trái lệnh vua”. Vậy ỉà khao khát cái đẹp mãnh liệt cùa Vũ Như Tô được tiếp sức, khích lệ bởi Đan Thiềm nên càng cháy sáng và biến thành hành động. Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô lợi dụng tiền bạc của tên hôn quân Lê Tương Dực để xây cho dân tộc một công trình kì vĩ, sánh với trăng sao, Cái đẹp mà Đan Thiềm tôn thờ là cái đẹp bề thế, muôn đời. Tình yêu cái đẹp cùa nàng xuất phát từ lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Lúc quân khởi loạn đốt phá kinh thành, tùng sục kẻ đã xây Cửu Trùng Đài, Đan Thiềm lại khẩn thiết khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn. Sự hoảng hốt, io lắng của nàng thể hiện qua ngoại hình: “chạy hớt hơ hớt hảỉ, mặt cắt không còn hột máu”, lẫn hành động và cử chỉ: thở hổn hển vào báo tin cho Vũ Như Tô. Thậm chí, khi bọn phản loạn đòi bắt giết người nghệ sĩ tài hoa mà nàng hằng tôn thờ, nàng còn quỳ xuống cầu xin. Những hành động cực tả đó đã tô đậm tinh thần hoảng loạn đau đớn của Đan Thiềm trước tình hình tính mạng của Vũ Như Tô bị đe dọa.

Tâm trạng của nàng còn thể hiện rõ qua lời thoại. Đầu tiên, Đan Thiềm van lơn, khuyên nhủ, van nài Vũ Như Tô: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! ông nghe tôi! ồng phải trốn đi mới được!”; “ông trốn đi. Tài kia không nên để uổng”. Lời thoại của nàng càng ngày càng khẩn thiết: “Đừng để phí tài trời”. Nàng ỉiên tục thúc bách Vũ Như Tô trốn để tài năng không mất.

Nhưng Vũ Như Tô quá bướng bình và mù quáng nên đáp lại sự van nài của Đan Thiềm, ông vẫn một mực không chịu trốn, và vẫn khăng khăng mình vô tội. Đến khi bọn phản loạn bắt được cả hai người thỉ mọi chuyện đã quá muộn. Lúc ấy, Đan Thiềm lại xin chết thay cho Vũ Như Tô: “Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hểt.. Nhung xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài…” Nàng đã hết lời van xin: “Tướng quân tha cho ông Cả. Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm”. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài của nàng khiến ta liên tưởng tới người quản ngục trong Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Đan Thiềm đã quý người tài, yêu cái đẹp hơn cả tính mạng của bản thân mình.

b.    Rất tỉnh táo, thấu hiểu lẽ đời, nhận rõ được tình thế

Khuyên Vũ Như Tô lợi dụng Lê Tương Dực để xây Cửu Trùng Đài.

Vũ Như Tô không xây Cửu Trùng Đài, đó là biêu hiện của bản lĩnh người quân tử và nhân cách của người nghệ sĩ nhưng ở phương diện khác, đó là biểu hiện của sự bướng bỉnh, mù quáng. Nếu Vũ Như Tô không xây đài thì khát vọng sáng tạo cái đẹp của Vũ Như Tô không có điều kiện thực hiện và bàn thân Vũ Như Tô cũng chết. Thấu hiểu điều đó hơn ai hết, Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô xây Cừu Trùng Đài.

“ Cũng không ai khác, chính Đan Thiêm khuyên Vũ Như Tô bỏ trôn, chờ cơ hội khác, bởi đại sự hỏng rồi: “Khi trước trốn đi thì ông nguy, bây giờ ông trốn đi thì thoát chết”. Trong khi Vũ Như Tô vẫn màu quáng, không nhận thức được những xung đột không íhể điều hòa hiện tại thì Đan Thiềm đã hiểu rõ: “Vậy mà ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông. Cửu Trùng Đài, họ có cần đâu? Họ dẩy nghĩa cốt giết ông, phá Cửu Trùng Đài”. Đan Thiềm còn hiểu được cả sự tính cách của người nông dân: “Khi dân nổi lên, họ nông nổi vô cùng”. Đan Thiềm hiểu được tình thế đang diễn ra nguy bách và Vũ Như Tô nếu không trổn tất yếu sẽ bị giết. Người dân còn phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh, lại phài đổ bao xương máu cho Cửu Trùng Đài, lòng họ căm giận vô cùng, họ không thể nào hiểu được khát vọng của Vũ Như Tô.

Đan Thiềm chỉ ra nguyên nhân: nhân dân và quan lại trong triều ai ai cũng cho Vũ Như Tô là thủ phạm, cho ông là kẻ đã tiếp tay cho Lê Tương Dực để tên hôn quân ấy ăn chơi sa đọa trên xương máu của nhân dân. Chứng tỏ, Đan Thiềm rất thấu đáo về thời thế. Bức tường thâm cao của cung vua phủ chúa không bó hẹp được tầm nhìn sâu sắc về thời thế của người cung nữ này. Nàng có cách ứng xử rất linh hoạt và uyển chuyển.

c. Tuy nhiên, Đan Thiềm cũng gặp bi kịch vỡ mộng

Đan Thiềm vốn là người cung nữ bị ruồng bỏ, ngót 20 năm bị giam lòng, làm thị nữ hầu hạ cho vua và đám phi tần kém nàng về cả nhân sắc và tài năng. Thậm chí, nàng còn bị khinh miệt.

Nàng là một hồng nhan bạc mệnh nhưng bi kịch lớn nhất của nàng là khổ lụy vì tài. Nàng lo lắng tột độ cho cái tài của Vũ Như Tô. Thấy tình huống cấp bách, nàng vội khuyên ông chạy trốn để giữ lấy tính mạng. Nhưng đau đớn thay Vũ Như Tô nhất quyết sống chết với Cửu Trùng Đài: “Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài nửa bước. Hồn tôi để cả đây, thì tôi chạy đi đâu”. Bởi vậy mà cái đẹp nàng tôn thờ, người tài nàng trân trọng có nguy cơ bị tiêu diệt. Khốn nỗi, Đan Thiềm càng van lơn thì Vũ Như Tô càng ương ngạnh. Lời của Đan Thiềm đã đến mức khẩn nài: “Trốn đi, đừng để phí tài trời”. Nàng đã chắp tay lạy Vũ Như Tô, rồi khóc khi ông bị dồn đến đường cùng. Đến khi đối diện với quân phản loạn, bà cũng van xin để giữ tính mạng cho người nghệ sĩ tài hoa: “Tướng quân hãy nghe tôi! Đừng phạm tội ác. Đừng giết ông Cả. Tôi xin chịu chết”. Nhưng đến cuổi cùng, mọi cố gắng của Đan Thiềm cũng chẳng đem lại kết quả, tận mắt nàng phải chứng kiến cảnh Vũ Như Tô bị bắt, còn mình bị dẫn đi. Cửu Trùng Đài tượng trưng cho cái đẹp siêu đẳng, cái đẹp hoàn hảo mà nàng tôn thờ đã tan thành mây khói. “Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cũng ông vĩnh biệt !” Đó là tiếng khóc đau đớn của con người yêu cái tài, cái đẹp nhưng lại chứng kiến cái tái cái đẹp bị vùi dập không thương tiếc.

3/ Đánh giá

Đan Thiềm là người cung nữ tha thiết yêu cái đẹp và cảm mến người tài nhưng nàng đã gặp bi kịch không kém phần đau đớn so với Vũ Như Tô. Đan Thiềm phải chứng kiến cái tài, cái đẹp mà mình trân trọng bị hủy diệt. Yêu cái tài cái đẹp nhưng không bảo vệ được. Khích lệ cái tài, cái đẹp nhưng lại chửng kiến người tài bị giết.

Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện tình cảm trân trọng đối với tấm lòng biệt nhỡn liên tài, với niềm say mê cái đẹp của người cung nữ. Tác giả cũng đồng cảm và xót xa cho bi kịch đớn đau mà nàng gặp phải. Trong lời đề tựa vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng có viết: “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giêt Như Tô phải? Ta chẳng biết, cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. “Bệnh Đan Thiềm” hay chính căn bệnh của những kẻ quý người tài, yêu cái đẹp nhưng bất lực không thể nào bảo vệ được những gì mà mình hằng giữ gìn? Trong một xã hội ỉoạn lạc, vua ăn chơi xa xỉ, trụy lạc, làm mọi cách để bòn rút xương tủy của nhân dân thì ước mơ về sự tồn tại của một cái đẹp hoàn hảo, cái đẹp vượt ỉên moi giá trị là điêu không tưởng.

–    Nghệ thuật:

Để nhân vật Đan Thiềm hiện lên một cách sinh động, nhà viết kịch đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật một cách chân thực, xúc động. Sự chuyển biến các trạng thái tâm lí cùa Đan Thiềm từ hoảng hốt, lo sợ, khẩn khoản van nài cho đến tức giận, tuyệt vọng đều rẩt hợp lí. Tác giả còn đặt nhân vật trong xung đột căng thẳng, giàu kịch tính, từ đó làm nổi bật chân dung nhân vật. Bên cạnh hai xung đột cơ bản, tác già còn tạo ra những xung đột nhỏ: một bên Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn, một bên Vũ Như Tô khăng khăng không chịu trốn: “Ta sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài, hồn ta để cả đây, thì ta chạy đi đâu”; mâu thuẫn giữa Đan Thiềm với cung nữ và bọn phản nghịch,… Các xung đột lớn nhỏ chồng chéo, bện xoắn vào nhau vì thế khắc họa rõ nét tính chất bi kịch của nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật giàu tính cá thể : tha thiết, khẩn nài, van xin, thất vọng, trong khi đó, ngôn ngữ của Vũ Như Tô hết sức bướng bỉnh, thê hiện sự mù quáng. Kết hợp với ngôn ngữ là hành động, cử chỉ, ngoại hình góp phần thể hiện tâm trạng nhân vật.

Ngôn ngữ mang tính tổng hợp cao, có sự kết hợp giữa kể, tả, biểu cảm, có tính hành động cao vởi nhịp điệu gấp nhanh. Thêm vào đó, tác giả tạo ra nhịp điệu gấp gáp, không khí căng thẳng nhờ các lớp ngôn từ đối thoại nhìn chung ngắn, gấp, xen iẫn tiếng reo, tiếng hét,.. .Cùng các lớp thoại ngắn và tiểng reo, tiếng hò, khóc,… là nhịp điệu ra vào của các nhân vật liên tiếp. Điều đó tạo ra không khí bão tổ lịch sử đồng thời ỉàm phông nền cho nhân vật. Tác giả còn đặt nhân vật trong nhiều mổi quan hệ: với Vũ Như Tô, với Lê Tương Dực, với nhân dân, với lũ phản nghịch để tính cách nhân vật hiện lên đa chiều, đầy đặn. Với Vũ Như Tô, Đan Thiềm ỉà người tri kỉ, hiểu và trân trọng cái tài của ông, cũng là người hà hơi tiểp sức cho khát vọng nghệ thuật của ông tỏa sáng. Trong mối quan hệ với cung nữ, Đan Thiềm bị ghen ghét. Còn với bọn phản nghịch, nàng là người đàn bà không íiêm chính, là kẻ đã xúi giục Vũ Như Tô và tiếp tay cho sự ăn chơi trác táng của Lê Tương Dực.

–    Vai trò cùa hình tượng:

Nói tóm lại, Đan Thiềm đã thúc đẩy xung đột của vở kịch đi đến cao trào tăng thêm tính lôi cuốn, hấp dẫn cho vờ kịch. Nàng còn là nhân tố quan trọng làm nổi bật tài năng, khát vọng và bi kịch của Vũ Như Tô. Đồng thời, nhân vật Đan Thiềm còn giúp tác giả thể hiện tư tưởng chủ đạo của tác phẩm.

III/ Kết bài

Hình tượng Đan Thiềm mang chứa khát vọng và cả những trăn trở xót xa của tác giả Nguyễn Huy Tường, Cho đến cuối cùng, tác giả cũng chẳng thể xác định một cách chắc chắn “Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải” bởi đó là câu hỏi muôn đời không trả lời được, ông chỉ có thể khẳng định: “Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm” – viết nên tác phẩm, xây đựng nên Vũ Như Tô và Đan Thiềm là bởi tẩm lòng yêu kính cái tài, cái đẹp và khát khao sáng tạo muôn đời của người nghệ sĩ đấy thôi!

Xem thêm: 

 

Exit mobile version