Dàn bài chung
a. Mở bài
Giới thiệu hoặc nêu lí do kể lại truyện truyền thuyết hoặc cổ tích đó.
b. Thân bài
Kể diễn biến câu chuyện truyền thuyết hoặc cổ tích theo một trình tự của chuỗi sự việc:
– Sự việc khởi đầu- Sự việc phát triển- Sự việc cao trào – Sự việc kết thúc
c. Kết bài
Dàn bài: Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em
I – Mở bài
Giới thiệu về câu chuyện cổ tích Tấm Cám – một câu chuyện cổ tích hay và đặc sắc của dân tộc ta.
II – Thân bài
Kể lại nội dung truyện Tấm Cám theo các diễn biến của câu chuyện, gồm các sự kiện sau:
– Sự kiện 1: Tấm mồ côi cha mẹ, sống với dì ghẻ và con của bà ta là Cám. Cô bị bắt làm việc vất vả, quần quật sớm hôm
– Sự kiện 2: Một hôm, dì ghẻ treo thưởng là chiếc yếm mới cho người bắt được nhiều tôm tép hơn. Vốn chăm chỉ nên có giỏ tép đầy, nhưng Tấm bị Cám lừa lấy mất, chỉ còn lại 1 chú cá bống nhỏ
– Sự kiện 3: Tấm nuôi cá bống trong giếng, nhưng bị dì ghẻ và Cám bắt ăn thịt. Nhờ Bụt, cô tìm được xương cá bống, rồi chôn vào hũ để ở góc giường
– Sự kiện 4: Từ hũ, Tấm có áo quần đẹp đi trảy hội, trở thành vợ vua
– Sự kiện 5: Giỗ cha, Tấm từ cung về làm cỗ, tự trèo lên cây hái cau, bị mụ dì ghẻ chặt cây, hại chết
– Sự kiện 6: Cám mặc áo chị vào cung hầu vua, 3 lần liên tiếp hại hóa thân của Tấm là chim vàng anh, cây xoan, khung cửi
– Sự kiện 7: Lần thứ 4, Tấm hóa thân thành cây thị, rồi trở về hình hài con người trong quả thị, sống với bà cụ bán nước
– Sự kiện 8: Một lần, vua đi qua quán nước, nhận ra Tấm nhờ miếng trầu têm cánh phượng, thế là 2 vợ chồng đoàn tụ với nhau
– Sự kiện 9: Tấm về cung sống hạnh phúc cùng nhà vua, còn 2 mẹ con Cám thì bị trừng phạt thích đáng
III – Kết bài:
– Nêu ý nghĩa, bài học của câu chuyện cổ tích Tấm Cám
– Suy nghĩ, nhận xét, tình cảm của em dành cho câu chuyện đó
Bài văn tham khảo kể chuyện Tấm Cám
Từ thuở bé, chắc chắn rằng ai trong chúng ta cũng thích những câu chuyện cổ tích do bà kể. Bước vào thế giới cổ tích như bước vào thiên đường vậy. Và có lẽ, một câu chuyện nói về dì ghẻ con chồng, không ai không biết được. Đó là truyện Tấm Cám.
Ngày xửa ngày xưa, trong một gia đình nọ có hai chị em cùng cha khác mẹ. Chị tên là Cám, em tên là Tấm. Mẹ Tấm mất sớm, mấy năm sau thì ba Tấm cũng qua đời, Tấm phải sống chung với dì ghẻ chính là mẹ Cám. Bà rất cay nghiệt, bắt Tấm làm quần quật từ sáng đến tối không lúc nào ngơi tay, từ việc nhà, chăn dâu cắt cỏ.Thế nhưng Cám chẳng làm gì cả, Cám được nuông chiều chẳng khác gì một cô công chúa.
Một ngày nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng mò tôm xúc tép, với lời thưởng “Hễ đứa nào được đầy giỏ thì sẽ được thưởng cho cái yếm đỏ”. Đến đồng, vì quen với công việc khó nhọc nên chẳng mấy chốc, Tấm được đầy giỏ, còn Cám thì chẳng được gì.
Cô em thấy vậy, nói lời ngon ngọt, bảo chị: “Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng”. Tin lời Cám, Tấm hụp sâu xuống nước tấm rửa. Nhân cơ hội đó, Cám trút hết giỏ của Tấm, tung tăng bước về nhà. Nhưng khi bước lên, thì chỉ còn giỏ không, Tấm ôm mặt khóc nức nở. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi: “Làm sao con khóc?”. Tấm kể hết sự việc cho Bụt nghe, Bụt bảo: “Thôi con nín đi, con xem trong giỏ còn gì hay không?”. Cô nhìn vào giỏ rồi trả lời: “Dạ, chỉ còn một con cá bống.”
Bụt nói: “Con hãy đem con cá bống về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một bát hãy dành cho bống. Mỗi lần cho ăn, con hãy gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.”
Con không gọi như thế thì nó không lên ăn đâu đấy.” Nói xong, Bụt biến mất. Tấm đem bống về nhà, làm như lời Bụt dặn, chẳng mấy chốc, bống và Tấm trở thành đôi bạn thân thiết.
Thấy Tấm có dấu hiệu lạ, mẹ con Cám sinh nghi, đi theo sau Tấm ra giếng. Thế là mẹ con họ bàn kế hoạch, dụ Tấm đi chăn trâu đồng xa để ở nhà hai mẹ con họ làm thịt bống.
Tấm về, vẫn gọi bống như cũ nhưng không thấy bống đâu, nhìn trên giếng nước có cục máu nổi lên, Tấm ôm mặt khóc. Bụt lại hiện lên, bảo Tấm hãy tìm xương bống bỏ vào bốn cái lọ và chôn xuống dưới bốn chân giường. Nhờ vào một con gà, Tấm đã tìm thấy xương và làm theo lời Bụt dặn.
Ít lâu sau, trong làng có lễ hội do nhà vua mở. Mẹ con Cám sắm sửa quần áo đẹp để trẩy hội. Ghét Tấm, họ trộn gạo với thóc vào nhau, bảo khi nào nhặt riêng ra xong thì mới được đi. Tấm lại khóc nức nở, Bụt bảo Tấm hãy đem gạo thóc ra ngoài sân để chim sẻ nhặt và hãy đi đào lọ lên. Khi đào lên, mỗi lọ đều có điều bất ngờ, nào là áo mớ ba, áo xống lụa, yếm lụa, đôi hài thiêu, một con ngựa và một bộ yên cương xinh xắn.
Trên đường đi lễ hội, Tấm đánh rơi một chiếc giày. Khi đi ngang qua chỗ ấy, nhà vua thấy một chiếc giày rất xinh, và quyết định rằng ai ướm vừa, thì người đó sẽ là hoàng hậu. Mọi người chen chân nhau ướm, trong đó có mẹ con Cám. Đến lượt Tấm vừa ướm vào thì đã vừa chân. Thế là từ hôm đó, Tấm vào cung và trở thành hoàng hậu. Nhân ngày giỗ cha, Tấm về nhà. Vì ghen tị với Tấm, dì ghẻ bảo Tấm hãy trèo lên cây cau và khi Tấm lên đến sát buồng thì bà ấy dùng dao đẵn gốc. Tấm ngã lộn cỗ xuống ao chết và dì ghẻ đưa Cám vào cung thay thế chị.
Tấm chết hóa thành con chim vàng anh bay vào vườn ngự, mỗi ngày hót cho vua nghe. Cám ganh tị và đã giết chim làm thịt. Thế là lông chim hoàng anh hóa thành cây xoan đào, ngày ngày vua mắc võng hóng mát. Cám mách mẹ và mẹ Cám bảo hãy chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Khung cửi lúc nào cũng rúc rích và kêu kót két. Cám đốt khung cửi và đem tro đổ ngoài đường. Đống tro lại mọc thành cây thị lớn và ra được một quả. Và một bà lão quán nước đã đem quả thị về nhà. Ngày ngày khi đi làm về bà thấy cơm nước đầy đủ, nhà cửa sạch sẽ. Bà rình thì thấy Tấm bước ra từ quả thị và bà xé vụn quả thị. Vua ngang qua quán nước, thấy quán sạch sẽ, vua ghé vào. Thấy têm trầu cánh phượng giống vợ mình và gọi người têm trầu thì vua nhận ra đó là vợ mình, vua truyền cho quân hầu rước nàng về cung.
Thấy Tấm đẹp hơn trước, Cám hỏi Tấm để làm theo. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đổ nước sôi vào. Cám chết, Tấm đem xác làm mắm rồi gửi về cho dì ghẻ ăn. Bà nức nở khen ngon, con quạ bay đến đậu kêu rằng: “Ngon ngỏn ngon ngon! Mẹ ăn thịt ăn, có còn xin miếng”. Bà quát mắng và đuổi quạ đi. Nhưng khi ăn gần hết, cuối chòm hĩnh bà mới nhận ra đầu lâu của con gái mình và lăn đùng ra chết.
Dàn bài: Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em
a. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết Thánh Gióng.
b. Thân bài
Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta.
Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre bên đường đánh tan quân giặc.
Thánh Gióng bay về trời.
c. Kết bài
Truyền thuyết thể hiện tinh thần đoàn kết chống giặc cứu nước.
Bài văn tham khảo kể chuyện Thánh Gióng
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có lấy một mụn con.
Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.
Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:
– Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.
Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:
– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
– Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.
Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.
Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sĩ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị tiêu diệt không sót một tên.
Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.
Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.