I. Tìm hiểu chung
- Tác giả
– Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446) tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông
– Là con trưởng của Hồ Qúy Ly
– Chống giặc Minh,bị bắt đem về Trung Quốc. Nhờ tài năng chế tạo vũ khí mà được trọng dụng lên làm quan dưới triều Minh.
– Mất tại Trung Quốc
– Để lại tác phẩm có giá trị : Nam Ông mộng lục (được sáng tác trong thời gian ở Trung Quốc)
2. Tác phẩm “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” – Y thiện dụng tâm
– Xuất xứ: Thuộc thiên thứ 8 trong tác phẩm Nam Ông mộng lục.
– Viết bằng chữ Hán
– Thể loại: Truyện trung đại
– Phương thức biểu đạt: tự sự
II. Phân tích
- Giới thiệu về Thái y lệnh họ Phạm .
– Có nghề y gia truyền
– Giữ tới chức Thái y lệnh
==> Là người có địa vị xã hội, là thầy thuốc giỏi
– Là thầy thuốc giàu y đức, hết lòng vì người bệnh (đặc biệt là những người nghèo):
+ Mang của cải trong nhà để mua thuốc tốt, tích trữ thóc gạo.
+ Dựng nhà cho kẻ khốn cùng
+ Cứu sống hơn ngàn người,…
– Được người đời rất trọng vọng
Trong xã hội xưa, những người nghèo khổ thường không có địa vị trong xã hội, thường bị xa lánh, khinh rẻ, không được coi trọng thế nhưng thầy thuốc Phạm Bân mặc dù làm đến chức Thái y lệnh nhưng ông vẫn rất quan tâm, hết lòng cứu giúp họ.
2. Y đức của Thái y lệnh
Được thể hiện nổi bật nhất thông qua tình huống thử thách.
- Tình huống: chữa bệnh cho người phụ nữ nghèo đang nguy kịch hay là vào thăm khám cho vị quý nhân đang bị sốt è tình huống khó xử, căng thẳng.
Cùng một lúc Thái y lệnh phải lựa chọn: Một bên là người đàn bà thường dân đang cơn nguy kịch, một bên là quý nhân đang bị sốt, cả hai đều cần đến thầy thuốc.Tuy nhiên, mức độ bệnh nặng nhẹ khác nhau, chức tước địa vị khác nhau, chắc chắn bổng lộc cũng sẽ khác nhau. Nếu chữa bệnh cho người nông dân: Làm đúng lương tâm thầy thuốc nhưng lại tội khi quân, có thể mất mạng.Nếu chữa bệnh cho bậc quý nhân: Trọn bổn phận bề tôi, bảo toàn mạng sống, được hưởng danh lợi nhưng lại trái với lương tâm thầy thuốc.
Đây thực sự là một tình huống khó, tình huống ấy đặt Thái y lệnh trước ba điều phải lựa chọn. Một là, giữa tính mạng đang nguy kịch của người dân thường với bệnh trạng chưa phải là nghiêm trọng của bậc quý nhân trong hoàng cung. Hai là, giữa trách nhiệm của người thầy thuốc với người bệnh và nghĩa vụ của bầy tôi trước lệnh của nhà vua. Ba là, giữa tính mạng người bệnh với việc lo an toàn tính mệnh của mình.
Là thầy thuốc riêng của vua, lẽ thường phải theo lệnh của vua. Trong xã hội phong kiến, người chống lại lệnh vua có thể bị mất đầu. Nhưng lương tâm người thầy thuốc không cho phép ông thấy chết mà không cứu. Thái y lệnh đã lựa chọn một cách dứt khoát: chữa bệnh cho người nguy kịch hơn. Hành động đó đã nói lên tư tưởng, tình cảm và thái độ của ông: Cứu tính mạng người bệnh là y đức, quan trọng hơn cả.
Viên trung sứ tức giận, đe dọa nhắc Thái y lệnh không quên trách nhiệm của kẻ làm tôi đối với vua chúa. Cưỡng lại lệnh vua, kẻ làm tôi dù đúng vẫn có thể bị tội nặng, thậm chí mất đầu; câu nói của viên Quan trung sứ như một lời cảnh báo về mối nguy hiểm cho vị Thái y lệnh nếu ông ta cứ làm theo ý mình. Quan trung sứ đặt Thái y lệnh vào tình huống khó, buộc Thái y lệnh phải có sự lựa chọn đúng đắn. Câu trả lời của Thái y lệnh thể hiện cách ứng xử vừa cứng cỏi, vừa mềm dẻo – có tình có lý, vừa thông minh, vừa láu lỉnh vì trong lời nói có ngụ ý tin tưởng vào sự anh minh và lòng độ lượng của nhà vua. Lời nói ấy khẳng định nhân cách của Thái y lệnh: Quyền uy không thắng nổi y đức, tính mệnh của thầy thuốc đặt dưới tính mệnh của dân. Thể hiện lập luận khéo léo, trí tuệ. Bởi nói như vậy, vẫn giữ được phận làm tôi mặc dù không theo đúng lệnh của vua.
- Kết quả: người bệnh được cứu sống, bản thân Thái y lệnh không những không bị tội mà còn được khen ngợi. Lời nói của vua Trần Anh Vương chứng tỏ ông là vị minh quân sáng suốt, hiểu người hiền, quý trọng điều nhân đức. Mặc dù không phải là nhân vật chính, nhưng Trần Anh Vương cũng có vai trò quan trọng trong việc thẻ hiện chủ đề tác phẩm. Việc làm của ông chứng tỏ lòng nhân ái vị tha có sức mạnh to lớn, vượt lên mọi uy quyền, vượt lên mọi luật lệ khuôn sáo cứng nhắc của XHPK. )
Thái y lệnh là bậc lương y chân chính, không những giỏi về nghề mà còn có lòng nhân đức, có sự lựa chọn đúng đắn. Cách ứng xử của Thái y lệnh cho thấy ông không chỉ là bậc lương y làm theo đạo đức nghề nghiệp mà còn là một người có trí tuệ, có hiểu biết và tin vào lẽ phải; tin tưởng và kính trọng nhà vua.
3.Hạnh phúc của Thái y lệnh
Hạnh phúc của y đức là được đưa tay nghề cứu người, được người đời tôn trọng và là tấm gương cho con cháu noi theo. Chính lòng nhân ái, y đức và bản lĩnh của một lương y chân chính đã làm thay đổi suy nghĩ của Trần Anh Tông và danh tiếng của Thái y lệnh mãi được lưu truyền hậu thế. Đó chính là thắng lợi của y đức, của bản lĩnh trong đó có lòng nhân ái và trí tuệ.
4. Ý nghĩa của văn bản
-Làm thầy thuốc thì phải nhân đức, hết lòng vì người bệnh.
– Bất kể nghề nào trong xã hội cũng cần có đạo đức. Đạo đức nghề nghiệp sẽ cho người ta sức mạnh, không chịu khuất phục trước cường quyền, làm cho con người trở lên tốt đẹp hơn, mạnh mẽ hơn.
III. Tổng kết
- Nghệ thuật:
– Bố cục chặt chẽ, hợp lí.
– Cốt truyện đơn giản.
– Xây dựng, khai thác tình huống truyện tiêu biểu, kịch tính, gay cấn.
– Ngôn ngữ đối thoại tự nhiên, sắc sảo, hàm súc.
– Ghi chép người thật việc thật…
2. Nội dung:
– Ca ngợi phẩm chất cao quý của vị lương y họ Phạm – một lương y chân chính: vừa giỏi về nghề lại giàu y đức.