I. Tìm hiểu chung
- Tác giả:
– Là nhà văn lớn, sáng tác nhiều thể loại. Số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
– Sáng tác thiên về diễn tả những sự thật đời thường: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
– Có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau.
– Lối trần thuật rất hóm hỉnh, sinh động nhờ vốn từ vựng giàu có, phần lớn là bình dân và thông tục nhưng nhờ sử dụng đắc địa nên đầy ma lực và mang sức mạnh lay chuyển tâm tư.
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952.
– In trong tập Truyện Tây Bắc (được tặng giải nhất – giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 -1955).
II. Đọc – hiểu
- Hình tượng nhân vật Mị
a. Sự xuất hiện của nhân vật Mị
Nhân vật Mị hiện lên ở đầu tác phẩm trong tình cảnh đầy nghịch lí qua cách giới thiệu giản dị, tự nhiên của tác giả: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa, mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Lời giới thiệu đã làm hiện lên hình ảnh một cô gái âm thầm, lẻ loi, bị lu mờ lẫn vào những vật vô tri, vô giác. Mị là con dâu nhà thống lí Pá Tra quyền thế, giàu có nhưng chân dung Mị lại gắn với những công việc lao động, với những uẩn khúc bên trong không thể giãi bày. Tác giả sử dụng giọng văn trầm buồn, lắng đọng làm nổi bật lên thân phận éo le không bình thường của nhân vật, gợi hứng thú tò mò cho người đọc vào tìm hiểu cuộc đời nhân vật.
b. Quãng đời của Mị trước khi vào nhà thống lí
Mị vốn là một người con gái trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa. Mị có tài thổi sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu chàng trai ngày đêm đi theo tiếng sáo của Mị hết núi này đến núi khác, trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị. Mị là bông hoa của núi rừng, là mơ ước của biết bao chàng trai làng bản, Mị có tâm hồn khao khát cuộc sống, khao khát yêu thương.
Sinh ra trong nghèo khổ nhưng Mị vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ miền núi, Mị giàu lòng tự trọng, hiếu thảo với cha già, chăm chỉ cuốc rẫy, làm nương.
Sự nghèo khổ, chính sách cho vay nặng lãi của bọn phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt cuộc đời Mị, đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp đẽ nhất với người con gái lại trở thành tấn bi kịch cuộc đời Mị.
c. Bi kịch làm dâu gạt nợ
- Nguyên nhân:
– Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ. Ngày cha mẹ Mị cưới nhau, vì không có tiền phải đến vay nhà thống lí và mỗi năm phải trả lãi một nương ngô, đến khi mẹ Mị đã mất, cha Mị đã già, món nợ vẫn còn đó. Bất đắc dĩ, Mị biến thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí.
– Lợi dụng tục cướp vợ của người Mèo, A Sử – con trai của thống lí Pá Tra đã cướp Mị về làm vợ một cách trắng trợn.
- Chuỗi ngày bi kịch
– Kiếp sống của con dâu gạt nợ thực chất là kiếp sống của con trâu, con ngựa, thậm chí không bằng trâu ngựa. Chuỗi ngày sống trong nhà thống lí Pá Tra là chuỗi ngày sống trong tủi nhục, cay đắng như trốn địa ngục trần gian, sự đày đọa đến cực cùng đã khiến Mị bị hủy hoại về thể xác, tê liệt về tinh thần.
– Lúc mới về làm dâu, để phản kháng lại sự vô lí ấy, đêm nào Mị cũng khóc, nước mắt của sự uất ức, cùng cực. Mị nghĩ đến cái chết, Mị cầm nắm lá ngón về lạy tạ cha nhưng vì thương cha, Mị lại không đành chết. Hình ảnh Mị ném nắm lá ngón đi gợi sự đau xót đến tận cùng, Mị đành tâm ném tuổi thanh xuân, ném đi chính hạnh phúc của cuộc đời mình, chấp nhận kiếp đời trâu ngựa.
– Tuổi xuân của Mị bị vùi dập héo úa trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng, không biết là ngày hay đêm – căn buồng ấy như một ngục thất giam cầm người tù chung thân, như một nấm mồ chôn vùi thanh xuân của Mị.
– Mị phải làm việc suốt ngày đêm, bị vắt kiệt sức lao động, trong Mị không còn khái niệm thời gian, thời gian được tính bằng công việc: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa mùa thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi „. Nhà văn Tô Hoài đã sử dụng biện pháp so sánh Mị giống như con trâu, con ngựa nhà thống lí để cực tả nỗi đau kiếp người như kiếp vật. Thậm chí Mị thổn thức Mị không bằng con trâu, con ngựa.
– Mị còn bị hành hạ đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần. Bất cứ lúc nào Mị cũng có thể bị đánh, bị trói một cách dã man, vô lí. Định đi chơi trong đêm hội mùa xuân như những người đàn bà khác ở Hồng Ngài, Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà bằng thúng sợi đay, người đau nhức không cử động được; xoa thuốc cho A Sử suốt đêm, khi kiệt sức mà thiếp đi liền bị nó đạp chân vào mặt; nhưng thậm chí, ngay cả khi Mị chỉ ngồi sưởi lửa, hơ tay, không động chạm gì đến ai , A Sử đi qua ngứa tay cũng đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Mị bị hành hạ, đánh đập như với con vật không vì bất cứ lí do gì.
– Cha con nhà thống lí đã trà đạp lên quyền sống của Mị, đem đến cho Mị những đau đớn, tủi nhục, không chỉ bị hành hạ về thể xác mà Mị còn bị hành hạ về tinh thần bằng sức mạnh uy quyền. Mị tin rằng mình đã bị trình ma nhà thống lí thì chỉ có chờ chết rũ ở đó, Mị đã đánh mất hết ý thức phản kháng.
d. Những biến đổi xót xa của Mị
– Từ một thiếu nữ trẻ trung, tràn đầy sức sống, một bông hoa ưu tú của núi rừng, Mị càng ngày càng trở nên lầm lũi, cam chịu, những dấu hiệu của con người sống đang dần mất đi trong Mị, tinh thần phản kháng không còn nữa bởi trái tim Mị không còn biết đau, biết phẫn uất. Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa mà đã là trâu ngựa thì phải đổi ở cái tàu ngựa này đến ở cái tàu ngựa khác, ngựa chỉ việc ăn cỏ và biết đi làm mà thôi.
– Ở Mị không còn những mong mỏi, khát khao, mọi suy nghĩ mệt mỏi của Mị chỉ hướng tới cái chết như đoạn đường cuối cùng trong cuộc đời buồn tủi. Trong căn buồng lạnh lẽo, tăm tối, Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Đó là suy nghĩ của một người hầu như không còn sức sống, sống như đang chết, sống trong cảm giác chờ đợi sự giải thoát từ cái chết.
– Mị bỗng trở thành người lạnh lùng, vô cảm. Trong những đêm đông lạnh lẽo ở Hồng Ngài, A Phủ bị trói đứng tới mấy đêm, vậy mà Mị vẫn thản nhiên ra ngồi thổi lửa, hơ tay. Thậm chí chính Mị cũng ý thức được sự vô cảm của mình khi cô nghĩ rằng A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi – trái tim nhân hậu của Mị dường như đã nguội lạnh.
– Đáng sợ hơn, Mị còn vô cảm với chính mình. Nếu như trước đây, khi mới sống trong nhà thống lí, Mị giãy giụa, phản kháng, thậm chí muốn dùng cái chết như một cách chống lại số phận. Nhưng bây giờ, sau những năm tháng bị đày đọa khổ ải, ngay cả khi cha đã chết, không còn gì ràng buộc, Mị cũng chẳng còn tưởng đến cái chết nữa, Mị đã không thiết sống cũng không còn tưởng đến cái chết nữa, ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi . Khi chẳng còn ý thức được nỗi khổ đau, Mị chẳng còn nghĩ đến việc tự tử để giải thoát. Khi bị A Sử trói đánh một cách dã man, vô lí, Mị cũng thờ ơ, dửng dưng, không tức giận, tủi hờn hay sợ hãi – Mị đã hoàn toàn vô cảm với nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần của chính mình.
– Cách sống của Mị cũng thay đổi đến xót xa, Mị làm việc như một cái máy vô cảm, một công cụ lao động biết nói mà câm lặng. Mị không còn ý thức về thời gian hay không gian. Thời gian với Mị là những công việc tuần tự từ mùa này sang năm khác, không gian với Mị là căn buồng lạnh lẽo, tối tăm với ô cửa nhỏ bằng bàn tay nhìn ra ngoài không biệt nổi sương hay nắng, ngày hay đêm nữa.
– Mị sống lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa. Những đêm đông vô tận ở Hồng Ngài, Mị chỉ còn biết làm bạn với ngọn lửa, cô độc âm thầm như một cái bóng. Lúc nào cũng vậy, dù làm gì, ở đâu, Mị cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Cuộc sống đau khổ, tủi cực đã lấy đi của Mị tất cả sức sống, không còn ý thức về sự sống.
2. Vẻ đẹp tâm hồn của Mị.
a. Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc.
Tưởng như Mị mãi mãi bị chôn vùi trong kiếp sống tăm tối nhưng dưới ngòi bút nhân đạo của nhà văn đã khơi lên một sức sống tiềm tàng, một khát vọng tự do trong Mị . Nó như những hòn than hồng được giấu trong đống tro tàn chỉ cần một làn gió nhẹ thổi qua cũng bừng sáng. Sức sống mãnh liệt ấy được bộc lộ trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc.
- Nguyên nhân:
Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân Tây Bắc khi mùa xuân đến hiện lên thật đẹp với màu sắc rực rỡ của cỏ gianh vàng ửng lên trong gió và rét dữ dội, những chiếc váy hoa phơi trên các mỏm đá trông xa hệt nhưng những con bướm đủ màu sắc sặc sỡ, màu hoa thuốc phiện đỏ rực,…. đã làm bừng lên trong tâm hồn Mị chút ý thức đầu tiên về sự sống.
Âm thanh náo nhiệt của cuộc sống với tiếng trẻ con nô đùa ầm lên và đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ ngoài đầu núi, tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.
Hơi rượu: Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát như uống hận, nuốt hận, Mị say rượu, lịm mặt ngồi đấy, không nhận biết gì diễn ra trước mắt. Mị nghĩ về ngày trước, lãng quên hiện tại để sống lại với quá khứ.
- Diễn biến tâm lí
Tiếng sáo làm Mị thổn thức nhớ lại tuổi thanh xuân, nhớ lại khi xưa Mị cũng từng thổi sáo rất giỏi, những kí ức tưởng chừng như đã mất lại ùa về đầy ắp , tâm hồn Mị như đang băng qua cánh rừng rậm đau khổ để trở về với dòng hồi ức tươi đẹp , Mị ý thức được bản thân mình:“Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. „ Mị thấy lòng phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng.
Khi tỉnh lại, Mị đau đớn nhận ra bi kịch của cuộc đời mình rằng Mị và A Sử chẳng có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau . Mị ý thức rất rõ về kiếp làm dâu nô lệ của mình, Mị phẫn uất và muốn chết ngay, nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ chẳng buồn nhớ lại nữa. Muốn chết là biểu tượng mãnh liệt nhất của sự thức tỉnh lòng ham sống, lòng khát khao hạnh phúc. Khi bắt đầu nhận ra nỗi cay đắng phẫn uất trong lòng mình cũng có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng lầm lũi vô cảm suốt bấy lâu nay.
Đỉnh cao của sự hồi sinh được tác giả sửa soạn qua hành động đi chơi. Mị thắp đèn, không chịu đựng cuộc sống tối tăm triền miên nữa, lòng ham sống của Mị đã trở về, ngọn đèn như thắp sáng trái tim Mị, Mị cuốn lại tóc với chiếc váy hoa để chuẩn bị đi chơi Tết. Dường như Mị đã biến thành một cô gái hoàn toàn khác, linh hoạt và tràn đầy sức sống.
Khát vọng hồi sinh của Mị bị A Sử dập tắt vô cùng độc ác. A Sử trói đứng Mị vào cột nhà bằng sợi dây trói độc ác và bằng cả mái tóc thanh xuân của Mị. Nhưng khát vọng sống càng bị dập tắt lại càng trỗi dậy mãnh liệt, trong đầu Mị vẫn chập chờn tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi…. khiến Mị như không biết mình đang bị trói. A Sử trói được thân xác Mị nhưng đã không còn kiểm giữ được tâm hồn của người con gái nhận ra mình vẫn còn thanh xuân và khát khao tận hưởng tình yêu, hạnh phúc trong tuổi thanh xuân.
Mị đã không thể vượt thoát được sức mạnh của cường quyền. Mị vùng bước đi, sợi dây trói thắt vào chân đau không cựa được, Mị tỉnh lại và trở về với hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã. Trong cảm nhận cay đắng của Mị, tiếng sáo tượng trưng cho tình yêu và hạnh phúc đột ngột biến mất, Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa, tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là những âm thanh của thực tạ, đưa Mị trở về với những liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống không bằng con ngựa của mình.
Dù Mị không thể vượt qua được sức mạnh của cường quyền nhưng sức sống vẫn tiềm tàng trong Mị và chỉ chờ cơ hội bùng cháy.
b. Sức phản kháng mạnh mẽ trong đêm mùa đông cởi dây trói cứu A Phủ
Sau đêm tình mùa xuân năm ấy, thái độ và dáng vẻ của Mị dường như lại trở về với con người cũ, nhẫn nhục và vô cảm. Tuy nhiên sức sống vẫn âm ỉ, tiềm tàng đâu đó trong lòng Mị và sức sống ấy lại trỗi dậy trong một đêm mùa đông lạnh lẽo ở Hồng Ngài.
Sự vô cảm với nỗi đau của người khác và với chính mình được thể hiện trong những chi tiết miêu tả tâm tư, thái độ của Mị khi hàng đêm ra sưởi lửa, hơ tay ở bếp lửa gần nơi A Phủ bị nhà thống lí trói đứng ở cây cọc ngoài trời. Có tới mấy đêm, Mị thờ ơ, không đoái hoài tới cảnh một người con trai bị trói, bị đói và rét đang chờ chết ngay bên cạnh mình. Chính Mị cũng ý thức được sự vô cảm của mình khi thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay bên cạnh một người sắp chết, thậm chí Mị còn nghĩ rằng nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Không chỉ vô cảm với A Phủ, Mị còn vô cảm với chính mình, bị A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, Mị cũng dửng dưng không thấy bất bình, chẳng hề sợ hãi và đêm sau vẫn ra ngồi sưởi lửa như đêm trước.
Nhưng ý thức về sự sống chưa chết hẳn trong lòng Mị. Trong một đêm ngẫu nhiên ra ngồi sưởi lửa, Mị quay sang nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Một người con trai khỏe mạnh, cường tráng bây giờ hốc hác thê thảm với hai hõm má đã xám đen khi bị trói đứng chờ chết. Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ về kí ức đau khổ của mình , nhớ lại cảnh mình cũng bị trói, cũng từng khóc cay đắng, nước mắt cũng chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được.
Mị cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng nỗi đau của chính mình, sự đồng cảm đã dẫn dắt trái tim vô cảm thờ ơ của Mị trở về với những sự đồng cảm đầu tiên. Hình dung ra cái chết của mình nếu tiếp tục bị trói như thế , nhớ tới cái chết của người đàn bà ngày trước ở nhà thống lí, nghĩ tới cái chết của A Phủ sắp tới – Mị bất chợt nhận ra tất cả những cái chết ấy đều có nguyên nhân từ sự tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra, lòng thương mình đã thức dậy lòng thương người, lòng nhân hậu dẫn đến sự căm hờn, phẫn uất.
Trong đầu Mị nổi lên ý nghĩ “ Ta đã là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi „ và phảng phất ý nghĩ về sự vô lí trong cái chết của A Phủ : người kia việc gì phải chết. Sau bao nhiêu năm tháng sống trong sự thờ ơ, vô cảm, có lẽ đây là ý nghĩ đầu tiên của Mị dành cho người khác, bất bình thay cho người khác.
Nhận ra dấu hiệu của cái chết ở A Phủ :“ Chỉ đêm nay người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết … Những từ chết xuất hiện liên tiếp trong tâm trí Mị cũng là một biểu hiện rõ nhất của niềm ham sống một lần nữa trở lại với Mị. Hình dung ra cảnh A Phủ chạy thoát, Mị phải chết thay, Mị cũng không thấy sợ. Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Mị hốt hoảng, sợ hãi, đứng lặng trong bóng tối: ở lại hay là chạy trốn? Sự sợ hãi đã thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực, Mị vùng chạy theo A Phủ.
Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng đồng thời thoát khỏi trạng thái vô cảm, lặng lẽ, trái tim nhận hậu hồi sinh và khát vọng sống cũng hồi sinh. Hành động cứu A Phủ và chạy trốn khỏi nhà thống lí là hành động quyết liệt, triệt để chống lại số phận, chống lại vòng cương tỏa độc ác của cha con nhà thống lí, giành lại cho mình quyền được sống, quyền tự do.
3. Nhân vật A Phủ
a. Số phận bất hạnh
Mồ côi cha mẹ trong một trận dịch đậu mùa, trở thành món hàng mua đi bán lại, cuộc sống mất tự do.
Nghèo khổ, suốt đời đi làm thuê, làm mướn , không có ruộng, không có cả chiếc vòng bạc để đi chơi ngày tết theo phong tục của người H’mông, A Phủ không thể lấy được vợ, không có được hạnh phúc cho mình.
Là nạn nhân của cường quyền. Vì chống lại sự tàn bạo của A Sử, A Phủ bị đánh đập dã man theo những tập tục tàn bạo thời trung cổ. A Phủ phải bị trả giá bằng đòn roi, bằng tiền phạt vạ, A Phủ trở thành người ở gạt nợ cho nhà thống lí. Vì một lần mải bẫy nhím, A Phủ để hổ vồ mất bò, A Phủ bị nhà thống lí trói đứng chờ chết trong đói, rét, phải đánh đổi cả sinh mạng của mình nếu không được Mị cởi trói giải thoát.
b. Phẩm chất tốt đẹp
Tình yêu tự do, phóng khoáng, mạnh mẽ. Bị bán xuống nơi đồng thấp, A Phủ không chấp nhận cuộc sống tù túng, mất tự do nên đã bỏ trốn lên núi cao và lưu lạc đến Hồng Ngài.
Tự lực kiếm sống, lao động giỏi, chăm chỉ làm việc, nhiều cô gái mê “ có được A Phủ là có được con trâu tốt ở trong nhà „.
Vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để giữ được tâm thế sống tự tin, yêu đời.
Yêu chính nghĩa, dũng cảm bảo vệ chính nghĩa. Trước sự bạo ngược của A Sử, A Phủ hiên ngang đối đầu trừng trị hắn. Khi bị xử kiện tội đánh A Sử, dù bị đánh đập tàn nhẫn theo kiểu trung cổ, A Phủ cũng không hề khóc lóc kêu xin mà cứ gan góc quỳ chịu đòn như một bức tượng đá.
Khi trở thành người làm công cho nhà thống lí, A Phủ vẫn là con người tự do, thẳng thắn, bộc trực. Để hổ ăn mất nửa con bò nhà thống lí, A Phủ thật thà về mượn súng đi bắn hổ, không quanh co, chối cãi.
A Phủ cũng là người con trai núi rừng có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ. Sau mấy đêm bị trói đứng chờ chết, được Mị cứu, A Phủ quỵ xuống vì đau đớn tê dại nhưng nghe lời giục giã của Mị : Đi ngay đi! A phủ hiểu rằng mình đang đứng trước tình huống khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa cuộc sống tự do và kiếp sống nô lệ nhọc nhằn. Khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt đã đem đến cho A Phủ nguồn sức mạnh phi thường khiến A Phủ quật sức vùng lên, chạy.
A Phủ là người biết trân trọng nghĩa tình và có tấm lòng cảm thông. Nghe tiếng nói cầu cứu của Mị , A Phủ hiểu ngay tình cảnh của cô, người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí và cũng hiểu ra cả tình nghĩa của người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình . A Phủ nhận ra cả mình và Mị đều là nạn nhân đau khổ của cường quyền, họ chỉ mạnh mẽ giải thoát khỏi chốn địa ngục trần gian ấy bằng cách nương tựa vào nhau của những con người cùng cảnh ngộ.
III. Tổng hợp – đánh giá
- Nội dung:
Hiện thực: phơi bày thực trạng bất công, độc ác của xã hội phong kiến miền núi với thần quyền, cường quyền và tiền quyền ngự trị; phản ánh cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức bóc lột của những người lao động.
Nhân đạo:
+ Đồng cảm, xót thương cho số phận bất hạnh của nhân vật.
+ Lên án, phê phán xã hội phong kiến miền núi với giai cấp thống trị dã man, tàn bạo.
+ Phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của nhân vật.
+ Tìm hướng giải thoát cho nhân vật – cho tầng lớp người trong xã hội.
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Ít tả hành động, chủ yếu khắc họa dòng tâm tư của nhân vật và xây dựng kiểu nhân vật tâm trạng
Giọng kể của nhà văn đan xen dòng tâm tư của nhân vật của nhân vật để có thể thể hiện đầy đủ những cung bậc cảm xúc của nhân vật.
Ngôn ngữ giản dị, phong phú, đầy sáng tạo. Lời văn mượt mà, sâu lắng, trữ tình , giàu tính tạo hình và sức truyền cảm sâu sắc. Ngôn ngữ vừa có sự vận dụng cách nói hồn nhiên, giàu hình ảnh của người dân miền núi vừa giữ được tính chuẩn mực của ngôn ngữ văn học.