Ra đời năm 1948, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bộ “ngũ tư bất tử” trong thơ ca thời kháng chiến chống Pháp. Nỗi nhớ về cảnh và người nơi núi rừng Tây Bắc, nhớ về những người đồng đội từng vào sinh ra tử đã trở thành mạch nguồn cảm hứng để Quang Dũng cho ra đời thi phẩm Tây Tiến gây xúc động lòng người. Bài thơ là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Men theo nỗi nhớ thương ấy, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên miền Tây rất đỗi thơ mộng, con người miền Tây khỏe khoắn, kiên cường đã được khắc họa thật đậm nét qua những vần thơ giàu sức gợi cảm:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông có thể viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, trong đó ông đặc biệt thành công trong lĩnh vực sáng tác thơ văn. Với hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng Quang Dũng đã mang đến cho thơ văn kháng chiến một màu sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là trong hình tượng người lính: vừa kiên cường dũng cảm vừa hào hoa phong nhã. Có thể thấy rõ những nét mới mẻ này qua bài thơ được coi là kiệt tác thơ văn của Quang Dũng – Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng chia tay với đồng đội, binh đoàn Tây Tiến để chuyển đến đơn vị công tác mới. Qua bài thơ, Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình cảm gắn bó với những người đồng đội và vùng đất Tây Bắc mà còn dựng lên đầy sống động chân dung những người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng, ngoan cường vừa tài hoa lãng mạn.
Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch: “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng – Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm” nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng ca cả: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pa-thét Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một đơn vị khác và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu. Bài thơ mới ra đời nó có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ, đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống đậm chất Đường thi: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.
Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản làng xứ lạ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khung cảnh của đêm liên hoan lửa trại được nhà thơ gọi theo cách riêng của mình là hội đuốc hoa thật tưng bừng, náo nhiệt và rộn rã. Không còn cái khúc khuỷu, thăm thẳm của đèo cao, vực sâu, không còn cái oai linh gầm thét của rừng thiêng xứ lạ nữa. Bừng lên là bừng tỉnh, bừng sáng, tưng bừng. “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát ra đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Từ “bừng” làm sống dậy cả một đêm liên hoan văn nghệ, làm bùng sáng và rộn ràng cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó là nhãn tự, là chữ có thần.
Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây nên cần phải có lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem và những chàng lính trẻ cầm trên tay bó đuốc là những thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng là lúc ánh sáng của lửa đuốc bừng lên soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong con mắt thơ tài hoa của Quang Dũng đó là đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, đắm say, lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc táo bạo và khó phai mờ. Ánh sáng bừng lên cũng là lúc những sắc màu lung linh tỏa rạng của những xiêm áo thổ cẩm:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Và còn bừng lên cả âm thanh của tiếng khèn “man điệu”: Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những điệu nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ như chốn núi rừng có sức mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.
Trong khoảnh khắc ngập tràn âm thanh và ánh sáng ấy, tâm hồn người lính cũng rộn rã, tưng bừng. Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi điểm nhìn. Nhân vật “em” đã có những cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái dân tộc miền núi rừng Tây Bắc, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ kháng chiến và những anh chàng lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong các đoàn văn công về phục vụ văn nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng có thể chính là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước sắc màu lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm bổng, trước những điệu múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng trai Hà Thành sẽ bị hút hồn vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng là những phút giây lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng không, có lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng của mình:
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian và không gian hiện tại, chơi vơi sang tận thủ đô Viên Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu hỏi vì sao? Thủ đô là trung tâm đầu não của một quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập. Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi thủ đô cũng là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra tại Viên Chăn của Lào ắt sẽ là đêm liên hoan vui niềm vui trọn vẹn, niềm vui trong chiến thắng. Có thể thấy, trong lúc mộng mơ nhất, người lính Tây Tiến vẫn không quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng một khát khao quét sạch bóng quân thù ra khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng chân chính, đúng đắn.
Sau những vần thơ rực rỡ sắc màu, lung linh ánh sáng và chan chứa niềm vui về đêm liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, Quang Dũng tiếp tục đưa người đọc về với cảnh Sông nước miền Tây mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi là ai? Phải chăng đó là những chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến trên đường trường hành quân đã đi qua mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. Và giờ đây khi ngồi nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng đã nhớ đến khoảnh khắc đầy ắp những kỉ niệm cùng đồng đội thân yêu, nhớ từng khuôn mặt, từng bóng hình thân quen. Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời gian “chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó là thời gian nào nhưng Quang Dũng chắc còn nhớ như in đó là một buổi hành quân trong chiều sương mù giăng mắc, bao phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật tài hoa.
Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn núi rừng Tây Bắc. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước, bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. Những cây lau không còn vô tri vô giác mà ẩn chứa linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến bờ. Những bông lau nở trắng khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều, nó không chỉ mang hồn cốt của mảnh đất miền Tây mà còn kí thác anh linh của những người đã ngã xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của bà Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ kính qua linh hồn cây cỏ:
Lối xe ngựa cũ hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Và nay Quang Dũng nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.
Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như những con sông nơi đồng bằng mà nó cuộn xoáy và càng dữ dội hơn khi mùa nước lũ tràn về. Bên bờ sông có những bông hoa dại nở, khi nước lũ tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa rừng. Dòng nước vì yêu hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng vì hoa yêu đất nên hoa vấn vương ở lại. Kết quả là bông hoa cứ đong đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng dằng nửa ở, nửa đi nhưng vấn vương không nỡ nên cứ làm mình làm mẩy, làm duyên làm dáng trên dòng sông. Tình cây- tình đất, bông hoa – dòng nước đang cố giao hòa giao cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên, đất trời.
Và có lẽ, hình ảnh trung tâm, điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh con người chèo thuyền độc mộc trên dòng nước lũ. Con thuyền độc mộc là một loại thuyền chỉ xuất hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi rừng. Nó không giống như thuyền thắt đuôi én, thuyền nan ở những con sông vùng đồng bằng. Con thuyền được làm từ thân một cây gỗ lớn, được đục và khoét thân nên thuyền rất chắc chắn. Dáng người chèo thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó là ai, người con gái hay con trai? Có lẽ người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thể là những cô thiếu nữ chèo thuyền đưa các chiến sĩ qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn ngẩn ngơ, còn làm thơ, còn vấn vương mãi trong tim bóng hình uyển chuyển, mềm mại ấy và rồi bỗng nhiên nó trở thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào neo đậu mãi trong tim những chàng trai trẻ.
Người đọc cảm nhận được sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người lao động bình dị. Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, làm dáng, đong đưa trên dòng nước lũ thì con người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở hoa trên dòng sông. Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say. Ở đây cảnh như làm duyên với người. Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Có thể nói, thành công của đoạn thơ chính là sự hoà quyện giữa chất hoạ, chất nhạc và chất thơ làm thành một. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Tám câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc. Nó như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tinh tế, mềm mại, sâu lắng. Từ đó, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới của cái đẹp, một thế giới của cõi mơ đầy ánh sáng, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc và cả vũ đạo. Tám câu thơ, hai khung cảnh nhưng chung một xúc cảm say đắm, mơ mộng. Phải là một tâm hồn thật tinh tế, nhạy cảm, Quang Dũng mới có thể chắp bút viết nên những vần thơ hay đến thế! Với những thành công về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật biểu hiện, “Tây Tiến” xứng đáng ở vị trí là một trong những tác phẩm hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp , đưa tên tuổi nhà thơ Quang Dũng sống mãi cùng bạn đọc muôn thế hệ.
🔻 Xem thêm: