Đề bài : Phân tích bi kịch của Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu trùng đài” (Trích “Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.
I/ MỞ BÀI
Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn yêu nước. Cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của ông là cảm hứng lịch sử, vừa đậm chất bi kịch, vừa giàu chất lãng mạn. Ông khát khao và có thiên hướng sáng tác những tác phẩm có quy mô lớn dựng lên những hình tượng hoành tráng để phản ánh lịch sử bi hùng của dân tộc. Ông sáng tác ở nhiều thể loại, nhưng có nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại kịch và tiểu thuyết. “Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử có qui mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941 và được tác giả viết thêm lời tựa năm 1942. Vở kịch được viết dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê và gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Trong đoạn trích, gây ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc là nhân vật Vũ Như Tô cùng bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài.
II/ THÂN BÀI
1/ Khái quát
– Khái niệm bi kịch:
– Bi là buồn, bi thương, là những mất mát, bế tắc không có lối thoát. Bi kịch thường nảy sinh từ mâu thuẫn, xung đột giữa mơ ước, khát vọng, hoài bão, lí tưởng và mong muốn của con người với hiện thực cuộc sống khiến con người rơi vào sự thất bại, trạng thái bi thương tuyệt vọng, thậm chí dẫn đến cái chết.
– Bi kịch còn là một thể loại kịch thể hiện mối xung đột không điều hoà được giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, lí tưởng và thực tại,…. Kết thúc các bi kịch nhân vật chính thường có kết cục bi thảm, đau thương, các thành quả quan trọng thường bị phá hủy, gây cảm xúc đau thương mãnh liệt cho người đọc, người xem. Trong văn chương không ít bi kịch như bi kịch giữa tình yêu và thù hận của Romeo và Jiuliet …
– Nguyên mẫu:
Vũ Như Tô là một nhân vật có thật đã từng được “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi chép rất tỉ mỉ: “Trước đây,Vũ Như Tô một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp những thanh nứa làm thành kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lên nhà vua; nhà vua bằng lòng phong cho Như Tô làm đô đốc đứng trông nom việc dựng hơn trăm nóc cung điện lớn có gác, lại khởi công làm Cửu trùng đài. “(Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên, quyển 26). Tuy nhiên Cửu trùng đài đã làm “Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên mien không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười.”(Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Quyển XV, Kỷ Nhà Lê, Tương Dực Đế). Sau đó, Trịnh Duy Sản phản nghịch, Vũ Như Tô bị thợ thuyền giết chết, xác quăng ngoài chợ, bị mọi người khinh khi nhổ nước bọt. Tuy nhiên, bi kịch đó của họ Vũ là sự oan khuất bởi ông chỉ là người thừa lệnh của vua làm Cửu Trùng Đài vì thế nhân dân lầm tưởng ông chỉ biết phụng sự cho hôn quân bạo chúa. Năm 1941, Nguyễn Huy Tưởng đã minh oan cho họ Vũ bằng vở kịch năm hồi này.
– Giới thiệu Vũ Như Tô trong tác phẩm:
+ Trong vở kịch cũng như trong đoạn trích, Vũ Như Tô là người nghệ sĩ tài năng, có lý tưởng cao đẹp nhưng lâm vào cảnh ngộ không giải quyết được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì nghĩa là không giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống cuối cùng rơi vào bi kịch đau đớn.
+ Bối cảnh Vũ Như Tô xuất hiện trong tác phẩm: Hoàn cảnh xảy ra bi kịch của Vũ Như Tô là bối cảnh của nước Việt Nam thời trung đại, vua quan ăn chơi hưởng lạc, nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Khi được Lê Tương Dực mời làm một kiến trúc sư xây dựng Cửu Trùng Đài thì ban đầu Vũ Như Tô không chịu hợp tác. Bản thân ông cũng căm ghét Lê Tương Dực vì đây là một tên vua quen ăn chơi hưởng lạc. Khi bị Lê Tương Dực đe dọa giết cả gia đình, ông cũng không đồng ý. Vũ Như Tô đã nhờ một cung nữ là Đan Thiềm mách đường chạy trốn, nhưng cung nữ Đan Thiềm vì say mê cái tài, cái đẹp đã khuyên Vũ Như Tô hãy lợi dụng tiền bạc của Lê Tương Dực để thi thố tài năng, thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình. Khi Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm thì cũng là lúc bi kịch bắt đầu.
2/ Bi kịch của Vũ Như Tô
2.1. Giới thiệu về Vũ Như Tô
– Tài năng:
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài ngàn năm chưa dễ có một. Ông có tài sai khiến gạch đá như tướng cầm quân, có thể xây “những lâu đài tráng lệ mà không hề tính sai một viên gạch”. Tài năng của ông còn được ví như người nghệ sĩ “chỉ cần vẩy bút là chim, hoa đã hiện trên mảnh lụa, thần tình biến hóa như cảnh hóa công”.
– Khát vọng cao đẹp:
Vũ Như Tô không chỉ có tài mà ông còn là nghệ sĩ lớn có khát vọng, hoài bão, lí tưởng lớn lao, cao cả. Ông muốn đem hết tài năng của mình để xây dựng một công trình tuyệt mĩ “tranh tinh xảo với hóa công” và “bền như trăng sao” để cho nhân dân ta nghìn năm còn hãnh diện. Công trình kiến trúc vĩ đại tuyệt mĩ ấy sẽ tô điểm cho non sông, đất nước để giữa cõi trần có một cảnh bồng lai. Lí tưởng, khát vọng ấy của Vũ Như Tô xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ trong lao động, sáng tạo nghệ thuật, đem lại vinh dự cho non sông và niềm tự hào cho hậu thế. Lý tưởng cao đẹp ấy ông gửi gắm ở Cửu Trùng Đài.
Cửu Trùng Đài – như cái tên của nó – là một công trình kiến trúc vĩ đại. Tầm vóc của nó được tính đếm bằng lượng gỗ, đá khối mà nghe qua cũng đủ kinh hoàng “hai trăm vạn cây gỗ chất đống cao như núi, toàn những gỗ quý vô ngần”,“hai mươi vạn phiến đá lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải ra”… Tầm vóc của nó phải hình dung là một công trình độc nhất vô nhị, vượt xa tất cả những kỳ quan ở Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành,… những công trình mà người đời từng biết đến, từng truyền tụng.
– Nhân cách:
Vũ Như Tô còn là người có cái tâm sáng, có bản lĩnh vững vàng, không sợ cường quyền. Ông khinh bỉ bọn thống trị thối nát, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc và ông cũng không hám lợi, không hề sợ chết. Bởi thế, Lê Tương Dực đã yêu cầu ông xây dựng cửu Trùng Đài, nhưng ông không khuất phục, ngay cả khi bị dọa sẽ giết chết, Như Tô vẫn không thuận ý. Sau này, khi đã chấp nhận xây dựng Cửu Trùng Đài được Lê Tương Dực thưởng lụa là, châu báu ông đều đem chia hết cho thợ.
Ông cũng vượt lên mối hận riêng và những vất vả khổ sở của bản thân, gia đình để xây dựng Cửu Trùng Đài. Mẹ bị xô chết, các con thiếu đói, đau yếu, bản thân bị quan triều khinh thị, lại bị đá đè gãy chân ông vẫn kiên định vì thành công của kiệt tác nghệ thuật.
2.2. Diễn biến bi kịch
Cửu Trùng Đài là hiện thân của cái đẹp, không phải cái đẹp nói chung mà là cái đẹp “siêu đẳng”. Tuy nhiên, Đài Cửu Trùng lại là hiện thân cho cái đẹp xa hoa. Xây nên kỳ quan ấy, tất nhiên cực kỳ tốn kém, một sự tốn kém không chỉ tính bằng tiền của ngân khố quốc gia, mà còn phải tính bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu của nhân dân. Thế mà Đài xây nên chỉ phục vụ cho kẻ ăn chơi sa đọa là vua Lê Tương Dực. Như vậy, ý nghĩa của Cửu Trùng Đài được xác lập trên nhiều mối quan hệ. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài hiện thân cho “mộng lớn”. Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu hãnh nước nhà. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân chúng, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu,… giống như công trình kiến trúc Vạn Niên của triều đình Nguyễn bị nhân dân nguyền rủa sau này:
“Vạn niên là vạn niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.
Còn nhớ đời Tây Chu bên Trung Hoa, U vương vì Bao Tự mà bắt dân xây Giao Đài để ăn chơi hưởng lạc, khiến cho lòng dân trong nước oán hận rồi cuối cùng đời Tây Chu cũng diệt vong. Và bao nhiêu vị vua khác thời phong kiến cũng vì ăn chơi hưởng lạc mà khiến đất nước rơi vào cảnh nguy nan, bị nhân dân trừng phạt. Vũ Như Tô đã sai lầm khi chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ thuần tuý nên vô hình chung trở thành kẻ cũng phe với Lê Tương Dực và đối nghịch, gây đau khổ cho nhân dân. Để xây dựng Cửu đài, triều đình đã ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng nước kiệt, thợ oán Vũ Như Tô vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những kẻ bỏ trốn để giữ kỉ luật công trường. Nhân dân căm giận bạo chúa, đồng thời cũng oán hận, nguyền rủa Vũ Như Tô. Mâu thuẫn đỉnh điểm khi Trịnh Duy Sản phát động nổi loạn. Quần chúng nổi loạn giết chết tên hôn quân Lê Tương Dực, đốt phá Cửu Trùng Đài và tìm giết Vũ Như Tô để rửa hận.
Đến trước khi chết Vũ Như Tô vẫn không thể nào trả lời câu hỏi xây dựng Cửu Trùng Đài là đúng hay sai, là có công hay có tội? Khi Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tôi có tội gì?”, vẫn quyết thực hiện khát vọng của mình “Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây!”. Ngay cả khi bị bắt Vũ vẫn không tin là sự thật, khi Đan Thiềm nói lời vĩnh biệt vẫn “đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ”. Khi quân sĩ cười ầm lên và dọa vả vỡ miệng, Vũ vẫn không ngừng nói về Cửu đài: “…vài năm nữa, Đài cửu trùng sẽ hoàn thành, cao cả, huy hoàng giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai”. Vũ Như Tô vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một phe nổi loạn, song sự thực đã diễn ra một cách phũ phàng tàn nhẫn vì chính An Hoà Hầu đã cho quân đốt phá kinh thành, đốt phá Cửu Trùng Đài tan thành tro bụi.
Khi tận mắt thấy Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ thì Vũ mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt vọng “Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Trời ơi! Phú cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường”. Trong lời thoại, “mộng lớn”, “Đan Thiềm”, “Cửu Trùng Đài” là những nỗi đau được Vũ Như Tô đặt kế tiếp nhau, tất cả những mất mát ấy như nhập hòa làm một, thành một nỗi đau bi tráng, tột cùng. Bi kịch của Vũ Như Tô không chỉ là bi kịch bị nhân dân coi là kẻ thù nên giết chết mà còn là bi kịch bị vỡ mộng lớn khi khát vọng, lí tưởng cao đẹp bỗng tan tành. Cửu Trùng Đài mà Vũ Như Tô coi trọng hơn cả tính mạng đã bị tàn phá khiến chính bản thân ông cũng không muốn sống. Sự đau đớn, thất vọng khiến ông sẵn sàng chấp nhận cái chết.
2.3. Lí giải bi kịch (nguyên nhân)
Về nguyên nhân bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả Tất Thắng nhận định “Lỗi lầm của Vũ Như Tô là lỗi lầm của người nghệ sĩ tưởng rằng có thể thực hiện khát vọng nghệ thuật của minh trong cuồng vọng của bạo chúa […] Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ khát khao sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho sự khát khao đó”. Đây là một nhận xét hoàn toàn xác đáng. Cụ thể hơn thì bi kịch của Vũ Như Tô là do:
– Mâu thuẫn giữa khát vọng cao cả của người nghệ sĩ xuất phát từ ý thức sâu sắc về thiên chức của người lao động nghệ thuật với thực tại là xã hội không thuận chiều. Trong hoàn cảnh không thích hợp, cái đẹp thành ra phù phiếm, cao siêu, thậm chí là tai hại. Nhìn chung thời đại, xã hội ấy không đủ điều kiện cho Vũ Như Tô phát huy tài năng.
– Mâu thuẫn giữa con người nghệ sĩ con người với con người công dân, tức là không giải quyết được mâu thuẫn giữa lợi ích của nghệ thuật với quan niệm nghệ thuật cao siêu thuần tuý với lợi ích thiết thực, trực tiếp của quần chúng nhân dân.
– Mâu thuẫn giữa mục đích cao cả với cách thực hiện khát vọng cao cả ấy. Mục đích của Vũ Như Tô là tốt đẹp nhưng con đường thực hiện lại sai lầm, khi ông lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật.
– Bi kịch của Vũ Như Tô do chính bản thân ông khi ông chỉ say sưa với nghệ thuật mà xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân. Khát vọng sáng tạo đến mức đắm chìm trong mơ mộng của người nghệ sĩ đã đẩy Vũ Như Tô đến vị thế đối nghịch với nhân dân. Chính vì thế mà ông không những không thực hiện được hoài bão mà còn biến thành kẻ ác trong mắt người đời, phải trả giá bằng cả sinh mệnh của mình.
– Mặt khác, bi kịch của Vũ Như Tô cũng do sự hiểu biết hạn chế của nhân dân. Họ không hiểu được Vũ Như Tô, không ý thức được giá trị của nghệ thuật và càng không hiểu được cần phải có những công trình nghệ thuật vĩ đại để tô điểm cho đất nước và là niềm tự hào cho hậu thế.
3/ Cảm nghĩ về bi kịch Vũ Như Tô
Đoạn trích nói riêng và vở kịch nói chung đã để lại giá trị nhân văn sâu sắc bởi:
– Thể hiện và khơi gợi sự thương cảm với người nghệ sĩ có tài năng và nhân cách, có đam mê, khao khát sáng tạo nghệ thuật, sẵn sàng hi sinh tất cả để tô điểm cho đất nước, làm đẹp cho đời nhưng phải chịu một kết cục bi thảm.
– Tác phẩm viết về số phận người nghệ sĩ (Vũ Như Tô), số phận của nghệ thuật (Cửu Trùng Đài) và từ đó thể hiện quan niệm không có cái Đẹp tách rời cái Chân, cái Thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. Nghệ thuật không thể cao hơn cuộc đời bởi vì nghệ thuật chân chính phải xuất phát từ cuộc đời, thực chất là cuộc đời và cái đích hướng đến của nghệ thuật cũng là cuộc đời. Người nghệ sĩ có hoài bão lớn lao, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời thì phải biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng với điều kiện thực tế cuộc sống, phải xử lí hài hòa giữa lợi ích của nghệ thuật với lợi ích của nhân dân. Trong hoàn cảnh xã hội không thuận chiều, họ phải biết hi sinh nghệ thuật để đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Vì nghệ thuật sẽ chết yểu khi nó là thứ nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật chân chính bao giờ cũng phải là nghệ thuật vị nhân sinh. Cửu Trùng Đại là công trình nghệ thuật tuyệt mĩ nhưng nó không tuyệt thiện, nó là một bông hoa nhưng là bông hoa ác nên đã bị tiêu hủy.
– Bi kịch của Vũ Như Tô cũng đưa ta đến với suy nghĩ xã hội phải trân trọng, tạo điều kiện cho người nghệ sĩ phát huy tài năng và phải biết quý trọng, nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực (như Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài) bởi nghệ thuật chân chính là cái Chân, Thiện, Mĩ mà con người muôn đời vẫn khao khát và theo đuổi. Ngày nay, nếu nhiều dân tộc trên thế giới được tự hào về những công trình nghệ thuật cha ông họ để lại như tháp Eiffel của Pháp, Vạn lí trường thành của Trung Quốc, Kim tự tháp của Ai Cập, chùa Vàng của Thái Lan… Và ngay cả quốc gia láng giềng nhỏ bé như Campuchia cũng có Ăngcovat được cả thế giới biết đến, thì dân tộc ta với bốn ngàn năm lịch sử đã có được những gì?
4/ Lời tựa
Một năm sau khi hoàn thành vở kịch, tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã viết lời tựa cho vở kịch. Trong đó, có đoạn viết: “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Đoạn văn cho thấy, Nguyễn Huy Tưởng dường như vẫn chưa tìm được cách giải quyết triệt để các mâu thuẫn trong vở kịch của mình. Vũ Như Tô đáng tôn vinh ca ngợi hay đáng thương hại? Xây đài Cửu Trùng là đúng hay sai? Những kẻ giết Vũ Như Tô đúng hay Vũ Như Tô đúng? Thậm chí, đam mê nghệ thuật khiến nhà văn có dấu hiệu “nghệ thuật vị nghệ thuật” khi nhận mình là người cùng bệnh với Đan Thiềm. Có lẽ đây là một cách để ông khơi gợi đến cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm nghệ thuật là “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” diễn ra trên văn đàn vào những năm 1930. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt ấy, phe “nghệ thuật vị nghệ thuật” cho rằng nghệ thuật chỉ thuần túy là nghệ thuật mà thôi và nghệ thuật là phải hướng đến cái đẹp lớn lao, siêu đẳng. Trái ngược với quan điểm trên, trường phái “nghệ thuật vị nhân sinh” lại quan niệm rằng nghệ thuật suy cho cùng thì cũng phải quay lại phục vụ cuộc sống con người, mà theo như Nam Cao nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Và nhà văn không được trốn tránh mà phải “đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”. Trong hoàn cảnh đó, vở kịch “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng ra đời như góp thêm một tiếng nói bênh vực cho quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Bởi trong vở kịch ấy ông đã thể hiện cho người đọc thấy nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác và chết yểu mà thôi.
III. KẾT LUẬN
1/ Nghệ thuật:
Bằng một ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp (miêu tả, kể, bộc lộ…) mang tính hành động cao, nhịp điều nhanh chóng, gấp gáp, các lớp kịch ngắn kết hợp với tiếng reo hò, tiếng động dưc dội… nhất là trong hồi cuối của vở kịch Vũ Như Tô, tác giả đã dẫn dắt hành động xung đột kịch rất thành công, tạo nên một bức tranh lịch sử hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó. Mâu thuẫn kịch bị đẩy lên đến cao trào, giúp bộc lộ rõ tính cách nhân vật Vũ Như Tô.
2/ Nội dung:
Nguyễn Huy Tưởng đã từng nói rằng “Người không biết lịch sử nước mình giống như con trâu đi cày ruộng, cày ruộng nhà ai cũng được”. Thông qua vở kịch “Vũ Như Tô”, nhà văn đã thể hiện sự am hiểu lịch sử dân tộc, từ đó bồi đắp thêm cho bạn đọc tình yêu với lịch sử dân tộc mình. Tác phẩm không chỉ tái hiện được không khí lịch sử của dân tộc ở một thời đại mà sâu sắc hơn đã phản ánh được một vấn đề nhức nhối trong đời sống văn chương nghệ thuật. Vở kịch thể hiện tâm huyết của nhà văn và có sức sống bền vững nên sau mấy chục năm kể từ khi ra đời, đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị, thậm chí còn có tính thời sự trong đời sống hiện đại.