ĐÔI DÉP CỦA THẦY
“Tôi gập lại những bài thơ trong sách giáo khoa để về nhà chăn trâu, bắt cua bắt tép phụ bố mẹ nuôi các em ăn học. Nhưng niềm khao khát được học hành luôn thôi thúc trong tôi. Nên mỗi buổi sau khi đã giặt giũ xong xuôi tôi thường ngồi ké vào bàn học của em và bắt đầu đọc sách. Những cuốn sách của thầy đã mở ra trước mắt tôi một thế giới vô vàn điều lý thú. Tôi như được bước vào những đời sống khác, vụt thoát khỏi hiện tại nghèo nàn. Mỗi lần nghe tôi say sưa kể về những trang sách nhỏ thầy đều bảo “tri thức sẽ còn mang chúng ta đi xa hơn nữa”. Và thầy bắt đầu dạy những đứa trẻ không được đến trường như tôi vào buổi trưa hoặc buổi tối trong ngày. Chúng tôi dưới ánh điện đỏ quạch trong ngôi nhà mái lá mục nát và bắt đầu làm từng phép toán. Cũng có đứa cao như cây sào ngồi đánh vần “O tròn như quả trứng gà. Ô thì đội nón. Ơ thì thêm râu”. Thầy ân cần cúi xuống cầm tay học trò đưa nắn nót từng chữ trên trang vở. Tôi có khi vì say mê một phép tính hay một bài thơ nào đó mà không biết thầy đang đứng ngay bên cạnh. Nhà thầy không có cửa gió luồn vào những manh áo vá. Chỉ giọng nói của thầy là ấm áp, đủ sức xua đi cái lạnh lẽo ngoài trời…
Nhà thầy nghèo, chỗ tôi hay ngồi học bức tường đất đã thủng lỗ chỗ hở ra cả rơm rạ. Nếu ngồi học vào buổi trưa thì ánh nắng hắt thẳng vào trang sách. Nhìn qua vệt nắng dài tôi thấy cả nghìn hạt bụi li ti cuồn cuộn bay trong không khí. Buổi tối gió thổi qua kẽ hở lạnh buốt cả người, thầy lấy một nùi giẻ nhét kín … Nhưng có hề gì, trên bảng đen vẫn lấp lánh từng phép tính nhân chia, cộng trừ […] Chúng tôi, những đứa trò nhỏ của thầy sau này có đứa thành đạt có đứa không. Nhưng tất cả chúng tôi đều đã thành người, sống không thẹn với những điều thầy dạy.
Năm nào có dịp về thăm tôi đều tìm mua tặng thầy đôi dép rọ bộ đội. Đó là loại dép đã gắn bó với thầy từ hơn hai chục năm về trước. Tôi vẫn nhớ như in đôi dép rọ của thầy, nó màu đỏ gạch đã bạc màu mưa nắng và mòn vẹt đế. Thầy vẫn đi đôi dép ấy ngay cả khi nó đã đứt quai. Buổi trưa hôm ấy lúc thầy ra đề Văn và bảo chúng tôi ngồi tập trung làm bài. Tôi thấy thầy xách theo đôi dép lặng lẽ ra đầu hiện ngồi. Một lưỡi liềm, một mảnh nhựa dẻo, thầy nhóm một đống lửa nhỏ bằng mấy thanh tre khô rồi khéo léo hàn quai. Chỉ một lúc sau là chân thầy đã nằm yên vị trong đôi dép rọ. Thầy hàn khéo đến mức nếu không nhìn kỹ sẽ chẳng nhận ra quai dép từng đã đứt. Nhưng thầy lại bảo “mỗi vết sẹo có vẻ đẹp riêng của nó. Sẹo của dép cũng vậy”. Tôi về nhà nhìn thật lâu những đôi dép để ngoài hè nước mắt bỗng ứa ra. Dép của anh em tôi thì lành. Dép của bố mẹ tôi chiếc nào cũng vá víu bằng những miếng nhựa khác màu. Vậy mà tôi có lúc tị nạnh với các em chỉ vì mình không có dép mới để đi. Trong khi đó biết bao người chỉ cần một đôi dép lành lặn để đi cũng đã là hạnh phúc. Kể từ đó tôi không bao giờ mè nheo đòi mẹ mua dép mới cho mình. Những đôi dép của tôi sau này đều được đeo cho đến khi chúng rách.
[…] Mùa Hè năm ấy bệnh đau dạ dày tái phát mẹ nằm co quắp ở nhà suốt mấy hôm, mà bố thì chưa ứng được tiền. Nhà cũng không có gì để bán, gà còn nhỏ, lúa gạo còn phải đi vay vì cả năm hạn hán không cày cấy được gì […] Tối hôm ấy thầy đến lúc bố tôi mới đi làm về. Tôi ngồi nấu cháo lợn trong bếp, thầy nói chuyện gì đó với bố hồi lâu. Lúc ra về thầy còn dặn tôi “Ngày mai em nhớ qua học cùng các bạn”. Mắt bố đỏ hoe, tay nắm chặt xấp tiền thầy vừa cho mượn. Tôi nhìn theo dáng thầy gầy gò, vẫn chiếc áo bạc màu và đôi dép hình như mới có thêm một vết sẹo vắt ngang.
Nhiều năm nay thầy đã già nhưng vẫn còn tha thiết chuyện gieo chữ nghĩa. Thầy mở một thư viện gia đình với gia tài sách của các học trò mang về góp lại. Thư viện của thầy mở cửa suốt ngày đón những người tha thiết với tri thức. Người đến với thư viện không chỉ là học sinh mà còn có cả những người lớn tuổi. Họ đến đó ngồi dưới những tán cây trong vườn và đắm chìm vào từng trang sách. Tôi về thăm thầy những khi lòng chống chếnh để tìm lại cảm giác bình yên trong ký ức khi còn là một đứa trẻ nghèo khát khao sự học. Thầy đã dạy tôi từng con chữ, uốn nắn tôi bằng những bài học không có trong sách vở. Như tình yêu thương của thầy và những miếng hàn trên đôi dép rọ mãi mãi là vết sẹo đẹp nhất mà tôi thấy trên đời…”
(Vũ Thị Huyền Trang)
I. Mở đoạn:
– Giới thiệu tác phẩm, tác giả và nhân vật:
- Truyện ngắn “Đôi dép của thầy” của tác giả Vũ Thị Huyền Trang.
- Nhân vật người thầy hiện lên như biểu tượng của sự hy sinh, lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm.
II. Thân đoạn:
1. Phân tích đặc điểm nhân vật:
– Hoàn cảnh: Thầy sống trong ngôi nhà nghèo nàn, vá chằng chịt nhưng luôn duy trì việc gieo mầm tri thức.
– Phẩm chất 1 – Sự tận tâm:
- Hình ảnh thầy cầm tay học trò nắn nót từng con chữ.
- Lời nói “tri thức sẽ còn mang chúng ta đi xa hơn nữa” truyền cảm hứng lớn lao.
– Phẩm chất 2 – Lòng yêu thương và sự hy sinh:
- Thầy giúp đỡ gia đình học trò trong lúc khó khăn.
- Đôi dép rọ với những vết sẹo tượng trưng cho sự hy sinh âm thầm.
2. Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh: Chi tiết đôi dép rọ, ánh nắng qua tường đất, dáng thầy gầy gò.
- Nghệ thuật đối lập: Sự nghèo khó vật chất đối lập với sự giàu có tinh thần của thầy.
- Giọng kể chân thành: Lời kể từ nhân vật “tôi” tạo mạch cảm xúc sâu lắng.
III. Kết đoạn:
- Ý nghĩa hình tượng nhân vật: Thầy là tấm gương sáng về lòng nhân ái, sự hy sinh và giá trị của tri thức.
- Đánh giá và liên hệ: Hình ảnh người thầy khơi gợi niềm tri ân, thúc giục độc giả sống trách nhiệm, lan tỏa yêu thương.
Bài làm tham khảo
Trong truyện ngắn “Đôi dép của thầy” của tác giả Vũ Thị Huyền Trang, nhân vật người thầy hiện lên như một biểu tượng sống động của sự hy sinh, lòng yêu thương, và tinh thần trách nhiệm cao cả. Người thầy đã chấp nhận cuộc sống nghèo khó, mái nhà tranh thủng gió và những đôi dép rọ vá chằng chịt, nhưng vẫn không ngừng gieo mầm tri thức cho những đứa trẻ khao khát học tập. Hoàn cảnh thiếu thốn không làm lu mờ ánh sáng trong tâm hồn người thầy; ngược lại, chính sự giản dị và tận tụy đã làm sáng ngời lên nhân cách cao đẹp của thầy. Một trong những phẩm chất nổi bật của thầy là sự tận tâm với học trò. Hình ảnh người thầy cầm tay học trò nắn nót từng con chữ dưới ánh đèn đỏ quạch đã khắc sâu trong tâm trí độc giả. Không dừng lại ở việc dạy chữ, thầy còn lan tỏa niềm tin vào tri thức với câu nói “tri thức sẽ còn mang chúng ta đi xa hơn nữa.” Qua đó, người đọc cảm nhận được thầy không chỉ dạy học mà còn trao cho học trò niềm hy vọng, sức mạnh để vươn lên khỏi hoàn cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, người thầy còn nổi bật với tấm lòng yêu thương và sự hy sinh. Khi gia đình học trò gặp khó khăn, thầy không ngần ngại cho mượn tiền dù bản thân còn thiếu thốn. Đôi dép rọ của thầy, với những vết sẹo được hàn khéo léo, trở thành biểu tượng cho những hy sinh âm thầm mà bền bỉ của thầy trong hành trình “gieo chữ.” Tác giả Vũ Thị Huyền Trang đã khéo léo xây dựng hình tượng người thầy bằng nghệ thuật kể chuyện dung dị mà cảm động. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi đã làm nổi bật những chi tiết tưởng như nhỏ nhặt nhưng đầy ý nghĩa, như đôi dép rọ bạc màu, vệt nắng dài hắt qua tường đất, hay dáng thầy gầy gò khuất dần trong bóng tối. Nghệ thuật đối lập giữa sự nghèo khó vật chất và sự giàu có tinh thần đã làm sáng lên hình ảnh người thầy với những giá trị cao quý. Giọng kể chân thành, đậm chất tự sự của nhân vật “tôi” cũng góp phần tạo nên mạch cảm xúc dạt dào, gắn kết độc giả với câu chuyện. Qua đó, hình ảnh người thầy không chỉ là tấm gương sáng về lòng nhân ái mà còn truyền tải thông điệp sâu sắc về giá trị của tri thức và tình yêu thương. Khép lại câu chuyện, hình ảnh người thầy với đôi dép rọ bạc màu vẫn mãi khắc sâu trong tâm trí độc giả, khơi gợi niềm tri ân sâu sắc và thúc giục mỗi chúng ta sống trách nhiệm, lan tỏa yêu thương.