I/ Mở bài
Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam ở mảng truyện ngắn và bút ký. Truyện của Nguyễn Thành Long hấp dẫn người đọc bằng giọng văn trong sáng, giàu chất thơ, cốt truyện tưởng như giản đơn mà rất giàu ý nghĩa khái quát. “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả chuyến công tác của Nguyễn Thành Long ở Lào Cai năm 1970 và được in trong tập “Giữa trong xanh” (1972) . Nhân vật chính trong tác phẩm là anh thanh niên làm việc ở trạm khí tượng. Đó là một người lao động mới với những phẩm chất: yêu đời, yêu nghề, say
II/ Thân bài
1/ Vị trí và cách gọi tên nhân vật
Tìm hiểu về nhân vật, điều đầu tiên khiến người đọc quan tâm có lẽ chính là cách gọi tên nhân vật của nhà văn. Ở đây, tác giả không đặt tên riêng cho nhân vật mà chỉ gọi bằng “anh thanh niên” , điều này làm cho ý nghĩa của truyện có sức khái quát hơn: truyện không chỉ ca ngợi một con người cụ thể mà đó là con người tiêu biểu cho thế hệ trẻ, cho người lao động mới đang ngày đêm âm thầm cống hiến cho nhân dân, cho Tổ quốc.
Anh thanh niên làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn là nhân vật chính của truyện. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ xuất hiện trong cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật khác như bác lái xe, ông họa sĩ, cô kỹ sư mới ra trường, khi xe của họ dừng lại nghỉ. Nhân vật ấy chỉ hiện ra trong chốc lát, đủ để các nhân vật khác kịp ghi nhận một ấn tượng, một ký họa chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở của núi cao Sa Pa. Nhân vật anh thanh niên hiện ra để cho mọi người cảm nhận rằng:”Trong cái lặng im của Sa Pa…, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước“.
2) Hoàn cảnh sống và công việc của anh
– Anh thanh niên 27 tuổi, anh sống và làm việc trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, “xung quanh anh chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, công việc của anh là “làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu” với công việc cụ thể là “đo gió, đo mưa, đo nắng tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. Tuy nhiên, gian khổ nhất với anh không phải là công việc mà là sự cô đơn, vắng vẻ , quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người. Cô đơn đến mức” thèm người quá”, anh phải kiếm cớ cho dừng xe qua đường để được gặp người, trò chuyện cùng mọi người dù chỉ trong chốc lát.
Từ việc miêu tả hoàn cảnh sống ấy, tác giả đã làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của anh thanh niên.
3/ Vẻ đẹp tâm hồn cao quý, đáng trân trọng.
a/ Anh thanh niên đẹp trước hết ở lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc vốn có nhiều gian khổ.
Anh không tô đậm cái gian khổ của công việc mà nhấn mạnh niềm hạnh phúc khi biết được mình đã góp phần phát hiện kịp thời một đám mây khô mà nhờ đó” không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng”. Anh cảm thấy hạnh phúc khi được làm việc và dâng hiến sức xuân của mình vì Tổ quốc, vì hạnh phúc con người. Anh có những suy nghĩ thật giản dị mà sâu sắc về công việc và cuộc sống: “và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất”. Dù đang một mình, nhưng anh tự hiểu mình đang cùng với bao người khác làm việc vì con người, vì cuộc sống nên không thấy cô đơn nữa. Anh luôn yêu công việc, coi công việc là bạn, là nguồn vui, là lẽ sống của cuộc đời.
Anh chưa bao giờ bỏ chế một giờ “ốp” nào dù cho thời tiết có khắc nghiệt đến đâu. Ở vùng băng giá với tuyết đổ sương rơi, bất kỳ thiên nhiên thế nào, đến đúng thời điểm ấy, anh vẫn phải thức giấc, xách đèn đi ốp, xách máy đi đo, không bỏ một ngày, âm thầm và bền bỉ góp sức mình cho cuộc sống con người, cho cuộc chiến đấu của dân tộc.
Cuộc sống một mình trên núi của anh không cô đơn, buồn tẻ như người ta vẫn nghĩ. Anh tự biết cách làm cho cuộc sống của mình trở nên phong phú, sôi động hơn khi anh biết lấy sách là người bạn tâm tình, biết tổ chức cuộc sống của mình một cách ngăn nắp, tươi tắn qua việc trồng hoa, nuôi gà, ăn ở gọn gàng, khoa học. Thế giới riêng của anh là công việc “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Cuộc đời riêng của anh ” thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”.
b/ Vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của anh còn được thể hiện ở sự cởi mở, chân thành, quý trọng tình cảm của mọi người, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách tận tình, chu đáo.
– Cái cách anh kiếm cớ để gặp người qua đường thật đáng yêu, anh lấy thân gỗ to chặn ở giữa đường buộc đoàn xe phải dừng lại để anh được gặp gỡ, trò chuyện với mọi người dù là khoảnh khắc ngắn ngủi. Dù ông họa sĩ và cô kĩ sư chỉ là những vị khách mới quen tình cờ nhưng anh không ngại mời khách lên nhà mình chơi, tiếp đón khách chân thành, nồng hậu . Anh vui mừng đến luống cuống, hấp tấp và cũng rất ân cần, chu đáo tiếp đãi những người khách xa đến thăm bất ngờ. Anh bộc lộ niềm vui mừng thành thật đến cảm động, anh “nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ“: ” Tôi không biết kỷ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ Tết . Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay”.
– Được gặp gỡ, trò chuyện với mọi người là niềm vui lớn, bởi vậy mà anh đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu: ” Bác lái xe chỉ cho bà mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống nước chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm” …,”Năm phút nữa là mười . Còn hai mươi phút nữa thôi…”,”Trời ơi, chỉ còn có năm phút!”. Đến khi chia tay, anh xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” mà ấn vào tay ông họa sĩ già cái làn trứng làm quà, và không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ đi “ốp“.
– Anh sống tình cảm và luôn biết quan tâm tới mọi người. Anh nhớ cả chuyện vợ bác lái xe mới ốm dậy nên đào củ tam thất làm quà biếu bác. Anh tặng hoa cho cô gái lần đầu tiên lên nhà mình chơi bởi anh hiểu tâm lí con gái, ai chẳng thích hoa, thích cái đẹp. Anh pha trà mời ông họa sĩ vì “Tuổi già cần nước chè” mà ở Lào Cai lại đi sớm quá. Anh còn biếu mọi người làn trứng gà để ăn trưa. Anh quả thật rất chu đáo và quý trọng tình cảm mọi người.
c/ Anh thanh niên còn là người khiêm tốn và thành thực
– Anh thành thực nhận thấy công việc và sự cống hiến, đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé, chưa thấm vào đâu so với những người lao động khác ở Sa Pa.
– Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung mình, anh không dám từ chối “để khỏi vô lễ”, nhưng anh nhiệt thành giới thiệu những người khác mà anh thực sự cảm phục. Anh nói về ông kỹ sư ở vườn rau dưới Sa Pa, về “đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu” đang nghiên cứu lập bản đồ sét với tất cả sự say mê hào hứng và lòng cảm phục chân thành của mình.
4/ Đánh giá
Dù anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, nhưng bằng cách đặt nhân vật vào tình huống gặp gỡ tình cờ, qua cảm xúc và đánh giá của mọi người xung quanh, những chi tiết tiêu biểu,… tác giả đã phác họa chân dung nhân vật với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống , về ý nghĩa công việc thật đáng yêu, đáng trân trọng.
III/ Kết bài
Trong cái “lặng lẽ” của Sa Pa, trên đỉnh Yên Sơn bốn mùa mây phủ, có những chàng trai trẻ như anh thanh niên đang sống và âm thầm dâng hiến tuổi xuân của mình cho hạnh phúc con người, cho Tổ quốc thân yêu. Đó là một mẫu người lý tưởng tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam Nam của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Vẻ đẹp tâm hồn và những suy nghĩ nghĩ của nhân vật anh thanh niên trong truyện đã gieo vào lòng ta niềm khâm phục, ngưỡng mộ và định hướng cho ta cách sống đẹp, thôi thúc ta khát khao được sống và làm những việc có ích cho cuộc đời.