Đề: Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã có những lần miêu tả dòng Sông Đà:
Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “ Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.
(Nguyễn Tuân – Người lái đò Sông Đà, Ngữ văn 12, Tập 1)
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp dòng Sông Đà trong đoạn văn trên, từ đó nhận xét về cái tôi tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
I – Mở bài
– Dẫn dắt và nêu vấn đề cần bàn luận
II – Thân bài
Các em có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý:
* Khái quát chung về tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận.
* Cảm nhận vẻ đẹp dòng sông Đà qua đoạn văn:
– Nội dung: đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Đà:
+Thác ghềnh lúc này chỉ còn là nỗi nhớ. Thuyền tôi trôi…câu văn mở đầu toàn thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; phép điệp “thuyền tôi trôi….lặng tờ, thuyền tôi trôi…không bóng người, thuyền tôi trôi….lững lờ” nhắc lại trùng điệp như một điểm nhấn của cảm xúc, cảm giác làm cho đoạn văn như một dòng cảm giác, cảm xúc cứ tràn đi, lan toả, bâng khuâng.
+ Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, mà nó trôingược về quá khứ. Bởi người ngắm nó – người đang lênh đênh giữa dòng sông, đang chìm trong hoài niệm, mạch cảm xúc bơi ngược về với lịch sử dân tộc “Hình như từ đời Lí, đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”.
+ Thiên nhiên hài hòa mang vẻ đẹp trong trẻo, nguyên sơ, kì thú được cảm nhận bằng hệ thống hình ảnh phù hợp, hô ứng với nhau để tạo cảm giác, ấn tượng về vẻ hoang sơ và tĩnh lặng của không gian: đó là những hình ảnh non tơ nhất, tươi tắn và tinh khiết nhất như lá ngô non đầu mùa, búp cỏ gianh đồi núi, vạt cỏ gianh với những nõn búp đẫm sương đêm, con hươu thơ ngộ, đàn cá dầm xanh… Trong không gian ấy, ngay cả một âm thanh rất hiện đại là tiếng còi tàu cùng được cổ tích hoá, huyền thoại hoá: tiếng còi sương. Trong một không gian như thế, sự tương giao giữa lòng người và tạo vật là một tất yếu nên một người khách sông Đà đã nghe được câu hỏi của con hươu thơ ngộ về sự tồn tại của một tiếng còi sương…..
+ Nguyễn Tuân đã trải lòng mình ra với dòng sông, hoá thân vào nó để lắng nghe và xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên
thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Qua mỗi dặm đường đất nước, nhà văn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ. Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam.
-Nghệ thuật:
+Giọng văn vừa trang trọng, trầm lắng, vừa da diết bâng khuâng vì thế tràn đầy xúc cảm. Từng câu, từng chữ, từng nhịp đi của hơi văn đều làm lộ ra cái dạt dào đó của cảm xúc.
+Ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế và giàu khả nàng gợi cảm: Những từ “lặng tờ” “hoang dại”, “hồn nhiên”, “con hươu thơ ngộ”, “tiếng còi sương” được dùng rất đắt, có sức lột tả tính chất của hình tượng. Cách so sánh độc đáo: so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng để trừu tượng hoá, thi vị hoá một hình ảnh cụ thể nhằm gây ấn tượng cảm giác hơn là gây ấn tượng thị
giác “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Sức tưởng tượng phong phú khiến Nguyễn Tuân hình dung và mô tả được nỗi niềm của cả con sông và của cả những sinh vật sinh sống trên bờ sông ấy.
→ Đoạn văn đã góp phần quan trọng trong việc tái hiện vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà, của thiên nhiên đất nước gấm vóc nên thơ đồng thời góp phần khẳng định tài năng của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật viết tùy bút.
* Nhận xét cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân:
+ Tài hoa: Ở lối viết uyển chuyển, linh hoạt; cách so sánh, liên tưởng nhiều tầng bậc, bất ngờ, độc đáo. Ông nhìn sự vật bằng con mắt của người họa sĩ, dưới góc độ thẩm mĩ; tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên đất nước.
+ Uyên bác: thể hiện ở cách nhìn và khám phá hiện thực theo chiều sâu, ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Hình ảnh dòng sông Đà được nhà văn miêu tả, tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc nhìn, với những chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy khả năng quan sát và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn Tuân.
III – Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề
Bài văn mẫu: Cảm nhận vẻ đẹp dòng sông Đà
Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào.
Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
Bút pháp của Nguyễn Tuân rất biến hóa. Lúc thì ông miêu tả sông Đà “hung bạo và trữ tình” qua cặp mắt ông lái đò dũng cảm, tài hoa. Lúc thì ông nhắc đến sông Đà như một “cố nhân” sau những ngày dài ở rừng đi núi “thèm chỗ thoáng”, và khi gặp lại con sông “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mui dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có lúc Nguyễn Tuân từ trên tàu bay nhìn xuống Đà Giang bâng khuâng dõi theo dáng hình của nó “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”. Có lúc ông lại trôi theo con đò êm ả xuôi dòng để thăm thú và tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ, kì thú mà nhiều người trong chúng ta thèm khát. Nhà văn đang miêu tả hay đang tâm tình. Đây một đoạn tùy bút đẹp, gợi tả vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của miền trung lưu Sông Đà, một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi hiếm có:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ… và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Nếu trong cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân tung ra một vốn từ ngữ phong phú, chính xác, mới lạ để diễn tả cuộc chiến giữa ông đò với thần sông, thần đá có đủ quân đông, tướng dữ, bằng một giọng văn mạnh mẽ, nhịp vần gấp như thác gầm, sóng réo, thì đến đoạn văn này giọng văn, nhịp điệu thay đổi hẳn: nhẹ nhàng, lâng lâng, mơ màng. Vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm của Đà Giang ở quãng trung lưu được diễn tả đầy chất thơ. Đó là quãng sông từ thác Tiếu trở như một câu tục ngữ Thái đã nói: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm” – mới có vẻ êm đềm thơ mộng ấy. Câu văn toàn thanh bằng diễn tả con thuyền êm ái nhẹ nhàng trôi xuôi: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…”. Một không gian nghệ thuật “lặng lờ” như ru “ông khách Sông Đà” vào giấc mộng phiêu du. Cái “lặng lờ” được nhấn đi nhấn lại như ướp hương rừng gió núi vào hồn người mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng ngoạn: “Cảnh ven sông ở đáy lặng tờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà. Ngược thời gian một thiên niên kỉ về trước, hai tiếng “lặng tờ” dẫn người đọc trở về với “mấy trăm năm thấp thọáng mộng bình yên” (Hoàng Cầm). Đã có cái “phẳng lặng tờ” của con sông trong cổ thi: “Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” nên mới có cái “lặng tờ” êm như ru của sông Đà mà Nguyễn Tuân cảm mến.
Mơ màng nhìn dòng sông, nghe nước êm trôi “lặng tờ”, ông khách sông Đà bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần cảnh ven sông. Bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên “mà tịnh không một bóng người”. Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những “nõn búp” ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu “hoang dại” và “cổ tích”. Không phái chú nai vàng ngơ ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào : mà ở đây chì có: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới có cái nhìn “xanh non” ấy, mới có cách nói, cách tả độc đáo ấy; ông đã thả hồn mình vào linh vật, mà yêu mến, nâng niu. Câu văn của ông tưởng như là hai vế của của một câu song quan trong bài phú lưu thúy: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử;
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. “Bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” là chữ của nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ này. Nguyễn Tuân không dựa vào trực giác để so sánh, ông ta đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kì thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp “hoang dại” và “hồn nhiên” của Đà Giang.
Rồi từ trong cái không gian “hoang dã” ấy của đôi bờ sông Đà, Nguyễn Tuân khao khát sống, khao khát “thèm” một âm vang của thời đại. Từ giấc mơ của “bờ tiền sử” chuyển sang giấc mơ về một tương lai huy hoàng qua một tiếng còi tàu kì diệu… Trong mộng tưởng có nhiều say mê: “Chao ôi thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đườngsắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu’’. Ông yêu sông Đà với cái “hồn nhiên”, “hoang dại’’ của nó, đã “nhìn sông Đà như một cổ nhân”, ông còn “thèm” ánh sáng của thời đại chiếu rọi đôi bờ Đà Giang, đưa người đọc cùng ông bay lên cùng “ngọn gió ngày mai thổi lại…”. Chất lãng mạn trong văn Nguyễn Tuân dìu dịu trong hương hoa “bữa tiệc thạch lan hương” thuở nào, chỉ đủ cho ta mơ ước về một viễn cảnh…
Đó là dư vị, là nhã thú mà ta cảm nhận được qua tiếng còi xúp lê mơ màng. Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là một bài thơ trữ tình kì diệu, một giấc mơ chập chờn chơi vơi trong cái lặng tờ của ven sông. Cái tĩnh lặng của khoảnh khắc giao cảm thần tiên giữa ông khách sông Đà với đàn hươu núi đã lên đến đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cò sương, hươu chăm chăm nhìn người như dò hỏi. Lòng người và tạo vật cùng rung động: “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhin tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”. Hươu nhìn người mà ngơ ngác Người nhìn đàn hươu mà lâng lâng chìm vào mộng tưởng. Không một tiếng động nhỏ. Cả một không gian nghệ thuật trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu. Hươu hỏi người hay người tự hỏi? Một giả định vừa thực vừa mộng ảo, siêu thực mà lãng mạn.
Từ cõi mộng mà trở về thực tại với bao nỗi bồi hồi: Hươu vểnh tai, nhìn tôi khôug chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể nói những nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ tài hoa, độc đáo, đã gợi tả cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dại của đôi bờ con sông Đà, đã tạo nên chất thơ, chất mộng ảo, dào dạt trong lòng người và thiên nhiên tạo vật. Câu chữ rất có duyên gợi lên cái hồn của cảnh vật: “Con hươu thơ ngộ”, “ngẩng đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “chăm chăm nhìn”, “Con vật lành”, “tiếng còi sương…”. Nguyễn Tuân đã nhìn thiên nhiên với cái nhìn phát hiện ở những chi tiết, dáng vẻ mang tính thẩm mĩ tài hoa.
Cảnh biến đổi nên câu văn Nguyễn Tuân cũng co duỗi biến hóa. Một tiếng động nhỏ của con cá dầm xanh như làm cho ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng. Mượn cái động để tả cái tĩnh được vận dụng sáng tạo, mở ra một không gian nghệ thuật mới. Cá quầy, đàn hươu vụt biến, cá vọt lên mặt sông “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn. Hươu núi vụt biến, cá bụng trắng vượt lên rồi rơi xuống, lặn xuống; trước mắt du khách chỉ còn là một màu xanh của nước, màu xanh cùa cỏ gianh đồi núi. Câu văn “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá. bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh.
Cá quẫy… đàn hươu vụt biến… và ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng, trở về thực tại, với con đò trôi xuôi, êm ái, lặng tờ. Vốn là một nhà văn tài hoa. uyên bác, những câu văn, câu thơ cổ kim đông tây, ông “giắt đầy mình”, vui thì ông đưa duyên, buồn thì ông ngâm ngợi Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Chưa có thi sĩ nào viết nhiều và viết hay về núi Tản sông Đà như Nguyễn Khắc Hiếu. Có trăng phải có rượu, cũng như có cảnh đẹp thì phải ngâm thơ. Nguyễn Tuân coi sông Đà là “cố nhân”, nên lấy thơ thi sĩ Tản Đà ra ngâm vịnh, mà ngắm cảnh đẹp Đà Giang, hỏi có còn nhã thú nào bằng? Tản Đà có ba bài thơ trường thiên cùng chung một giọng điệu: “Thư đưa người tình nhân không quen biết” (1918), “Thư trách người tình nhân không quen biết (1921), “Thư lại trách người tình nhân không quen biết” (1926). Nguyễn Tuân chỉ trích hai câu trong bài thơ thứ hai, trích hai câu hay nhất, đích đáng mà lại vừa hợp cảnh, hợp tình, ông viết:
“Thuyền tôi trôi trên “dải sông Đà bọt nước lênh bênh – bao nhiêu cảnh bấy; nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Việc trích dẫn thơ Tản Đà ở đây còn mang một ý nghĩa “tri ân”, “Rượu ngon không có bạn hiền” để cùng nhau “đối tửu”. Cũng như có cảnh đẹp mà thiếu bạn thì cái yêu hoa thưởng nguyệt đã giảm đi ít nhiều nhã thú. Đọc thơ bạn, ngâm bạn trong lúc này, Nguyễn Tuân xem như bạn đang cùng mình ngồi trên thuyền trôi trên “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…” mơ màng tâm tình và thưởng ngoạn. Đó là tài tử, là tài hoa. Đó là tri ân, tri kỉ.
Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn cảm thấy nó “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Dòng sông vẫn “lững lờ” êm trôi “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”, “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “Con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đàm thắm nồng hậu, một cái lắng nghe trìu mến yêu thương. Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông để cùng với nó mà “lắng nghe”, mà nhớ thương, những âm vang, những nhịn sống ấm ấp của cuộc đời. Ta cảm thấy có một dòng sông đang êm trôi,đang lững lờ trong tâm hồn minh, bát ngát mênh mông… Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy!
Nguyễn Tuân yêu sông Đà, yêu Tây Bắc, yêu một trời hoa ban, yêu một sắc đầy Tô Hiệu, yêu một ông lái đò dũng mãnh tài ba, lúc vượt thác cũng như lúc ngồi trong hang đá nướng ống cơm lam… Bác Nguyễn yêu cái lặng tờ của dòng sông ,yêu đàn hươu rừng thơ ngộ, yêu một tiếng cá dầm xanh quẫy, vọt lên mặt sông “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Tác giả Sông Đà còn yêu và say mê ngắm “con đò đuôi én thát mình dây cổ điển” của người Thái, “con đò mình nở chạy buồm vải” của người Kinh, người Mường… Yêu sông Đà, yêu cảnh sắc sông Đà yêu Tây Bắc, với Nguyễn Tuân, với chúng ta, chính là tình yêu sông núi, yêu con người Việt Nam cần cù, nhân hậu, dũng cảm, tài ba..
Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà Giang ở quãng trung lưa. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Một chất thơ tỏa rộng, man mác. Một ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu. Những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi. Đây là một đoạn hay và đẹp nói về hương sắc đất nước. Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên “trang hoa”, “tờ hoa” này.. Người đọc vẫn cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ cùa dòng sông “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”.