Ca dao là tiếng hát trữ tình của người lao động. Niềm tự hào về quê hương đất nước, nghĩa tình gia đình, cộng đồng, sự rung cảm trước thiên nhiên tươi đẹp…đều được thể hiện qua những lời ca đằm thắm, thiết tha. Tình yêu lứa đôi với những cung bậc như nỗi nhớ thương, lòng chung thủy cũng là những giai điệu đẹp trong khúc hát trữ tình sau lũy tre xanh.
Thương nhớ vốn là một tình cảm khó hình dung, nhưng trong ca dao, có những bài đã hình tượng hóa nỗi nhớ bằng những hình ảnh cụ thể. Như bài ca dao sau: Khăn thương nhớ ai?/Khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai?/Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai?/Khăn chùi nước mắt/Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt/Mắt thương nhớ ai?/Mắt ngủ không yên Đêm qua em những lo phiền Lo vì một nỗi không yên một bề. |
Bài ca dao diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. Đó là nỗi nhớ thương đến tan chảy cả cõi lòng nhưng không tự bộc lộ một cách buông tuồng dễ dãi. Đó cũng là tâm trạng nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, cứ hiện hình dần lên và sáng mãi ra từ trong cõi nhớ của riêng mình cô gái. Nỗi niềm thương nhớ người yêu của nhân vật trữ tình đã được cụ thể hóa bằng những hình ảnh nhân hóa, hoán dụ: khăn, đèn, mắt. Cô gái hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt để bày tỏ tâm trạng của mình .
Bài ca dao có mười hai câu thì sáu câu đầu là hình ảnh chiếc khăn: Khăn thương nhớ ai?/Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai?/Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai?/Khăn chùi nước mắt Cái khăn được hỏi đầu tiên và được hỏi nhiều nhất trong 6 câu thơ( tức nửa bài ca dao). Cũng đúng thôi vì đây là vật gắn bó, gần gũi với người con gái. Trong tình yêu, khăn trở thành vật trao duyên: “Nhớ khi khăn mở, trầu trao. Miệng chỉ cười nụ, biết bao ân tình”. Sáu câu vãn bốn, được cấu trúc theo lối vắt dòng, láy lại sáu lần từ “khăn” và ba lần câu hỏi thẫn thờ “Khăn thương nhớ ai?” như một điệp khúc, làm cho nỗi nhớ thêm triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Cố nhiên, cái khăn tự nó không làm nên chuyện. Nhưng đằng sau tất cả sự xuống, lên, rơi, vắt của cái khăn kia là một con người hiện lên rất rõ trong tâm trạng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Chiếc khăn rơi xuống đất, rồi lại được nhặt lên để vắt trên vai, để chùi nước mắt. Đó là nỗi nhớ có không gian. Hình ảnh khăn gợi lên tâm trạng bối rối, trông ngóng, thẫn thờ. Sáu câu, hai mươi bốn từ, có mười sáu thanh bằng mà hầu hết là thanh không, làm cho nỗi nhớ thương càng thêm bâng khuâng, da diết mà vẫn man mác, nhẹ nhàng. Nỗi nhớ bên trong réo thúc bùng sôi nhưng được nói ra thật ý vị, ngọt ngào. Đó là nỗi nhớ mang màu sắc nữ tính, nói lên nhân cách của một người nhớ mà biết trân trọng nâng niu nỗi nhớ, biết ghìm lại nỗi nhớ kín đáo trong lòng mình. |
Ở hai câu tiếp, ngọn đèn gợi nỗi nhớ theo thời gian, từ ngày sang đêm, đèn không tắt chính là lòng người đang thao thức, trằn trọc :
Đèn thương nhớ ai? Mà đèn không tắt Điệp khúc “thương nhớ ai” được giữ lại, nhưng nỗi nhớ đã được đặt vào cây đèn. Trong cái khoảng ưu tư vò võ của đêm khuya khắc với canh tàn, cái đốm lửa cháy sáng trên đầu ngọn bấc kia cũng chính là nỗi nhớ vẫn đang cháy rực lên trong lòng cô gái. Chừng nào ngọn lửa tình vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia tắt làm sao được ? Đèn không tắt hay chính con người đang trằn trọc thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng với thời gian? Vẫn là câu hỏi không có lời đáp nhưng chắc chắn đã có sức đồng vọng mãnh liệt trong tâm hồn chàng trai cũng đang ngổn ngang trăm mối. |
Khăn, đèn là những hình ảnh ngoại cảnh, được nhân hóa để bộc lộ lòng người. Đến đây, như không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình :
Mắt thương nhớ ai? Mắt ngủ không yên Mắt là hình ảnh hoán dụ cho chính con người. Lời tỏ bày niềm thương nỗi nhớ đã chuyển từ gián tiếp sang trực tiếp. Xúc cảm càng lúc càng dâng trào, lời tự tình càng lúc càng thiết tha. Cuối cùng, nhân vật trữ tình buộc phải xuất hiện. Phải xuất hiện mới nói hết được lòng mình. Phải xuất hiện mới đúng là nỗi nhớ trong tình yêu cháy bỏng. Ở đây không còn là nghệ thuật nữa mà là tình người. Đúng hơn là tình người, hồn người đã là nghệ thuật cao cả nhất và chân chính nhất. |
Hai câu lục bát kết thúc bài ca dao vãn bốn là lời lý giải cho nguyên cớ của tâm trạng thẫn thờ, thao thức, khắc khoải, suy tư:
Đêm qua em những lo phiền, Nhân duyên trong xã hội phong kiến chịu nhiều ràng buộc. Mọi việc liệu có sẽ yên một bề? Cô gái chỉ lo vì một nỗi ấy. Nhưng sao lại là “Đêm qua” mà không phải đêm nay? Phải chăng, từ lúc cô gái “khăn mở, trầu trao”, cô đã không nguôi lo lắng cho nhân duyên của mình. Nỗi nhớ mới chỉ là tâm trạng, nỗi lo phiền mới là những suy tính, phấp phỏng, lo âu. Cô gái lo về tình yêu của chàng trai, lo về phía gia đình, lo vì họ hàng cùng bao nhiêu nỗi lo âu, phiền muộn khác. |
Bài ca dao khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hoá tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần lonh hoạt. Bài ca dao có hình thức trình bày đặc biệt với mười câu thơ bốn chữ và một cặp lục bát. Hình thức đó đã tạo nên sự hài hoà, hiệu quả với thể hứng của bài ca dao.Đó là cách mượn câu chuyện của ngoại cảnh bên ngoài để bày tỏ tâm trạng, những nỗi niềm của nhân vật trữ tình. |
Tóm lại, bài ca dao giàu hình ảnh đã thể hiện nỗi thương nhớ của một cô gái, qua đó, phản ánh một sự thực trong xã hội phong kiến xưa: đôi lứa yêu nhau, nhưng không thể tự do đến với nhau. Họ còn phải vượt qua nhiều rào cản của lễ giáo phong kiến. Bài ca dao khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ, đề cao giá trị của tình yêu chân chính tự do, ước mơ của tất cả những người yêu nhau trong mọi thời đại. |