BÀI HỌC ĐẦU CHO CON
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ…
-Đỗ Trung Quân
I/ Mở bài : giới thiệu tác giả, tác phẩm, khái quát ấn tượng chung về tác phẩm.
Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người. “Bài học đầu cho con” của Đỗ Trung Quân là lạch suối mát trong của mạch nguồn ấy. Bài thơ để lại trong lòng người đọc những cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng khi ngân nga cảm nhận từng vần thơ. Qua những hình ảnh gần gũi, bình dị, bài thơ như lời thủ thỉ dịu dàng, khơi gợi tình yêu quê hương trong tâm hồn mỗi người, đặc biệt là những tâm hồn non trẻ.
II/ Thân bài
1/ Khái quát chung về tác giả, tác phẩm
Là nhà thơ tiêu biểu của thi ca Việt Nam hiện đại, Đỗ Trung Quân đã mang đến nhiều tác phẩm in đậm tình yêu quê hương, đất nước. Trong đó, bài thơ “Bài học đầu cho con” – đăng lần đầu năm 1986 trên báo Khăn quàng đỏ – là thi phẩm tiêu biểu ghi dấu ấn đậm nét. Ngay từ nhan đề, bài thơ đã khơi gợi một cảm xúc ấm áp, thiêng liêng: bài học đầu tiên trong đời mà đứa trẻ cần được học không phải là toán, là chữ, mà là tình yêu quê hương – nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó máu thịt với mỗi con người.
2/ Phân tích nội dung, chủ đề bài thơ.
Nét nổi bật trong chủ đề bài thơ chính là tình yêu quê hương, là sự gắn bó máu thịt với nơi chôn rau cắt rốn. Mở đầu bài thơ là những câu hỏi hồn nhiên của đứa con thơ:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Câu hỏi “Quê hương là gì hở mẹ?” được lặp lại như tiếng vang ngân dài trong tâm hồn thơ trẻ. Đó không chỉ là lời hỏi hồn nhiên mà còn thể hiện sự khởi đầu của một hành trình nhận thức về nguồn cội, về nơi chốn gắn bó sâu nặng trong đời. Những vế sau “mà cô giáo dạy phải yêu”, “ai đi xa cũng nhớ nhiều” như một lời khẳng định nhẹ nhàng mà sâu sắc: tình yêu quê hương là thứ tình cảm thiêng liêng, bền bỉ, là một phần không thể thiếu trong tâm hồn mỗi con người.
Nếu như khổ thơ đầu đặt ra câu hỏi thì những khổ tiếp theo là lời giải đáp bằng cảm xúc và hình ảnh cụ thể:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là ….
Điệp ngữ “Quê hương là…” được lặp lại liên tục không chỉ tạo nhịp điệu thơ ngân nga mà còn khắc sâu cảm xúc và gợi mở nhiều tầng nghĩa. Quê hương hiện lên không phải bằng những khái niệm trừu tượng, mà bằng những hình ảnh bình dị, gần gũi với tuổi thơ: chùm khế, đường đi học, con diều, con đò, giàn mồng tơi, hoa cau, hoa bí… Tất cả những điều nhỏ bé ấy lại là mảnh ghép tạo nên bức tranh quê hương đậm màu ký ức. Đó là nơi tuổi thơ lớn lên cùng thiên nhiên, là bầu không khí yên bình, là vòng tay ấm của mẹ giữa đêm mưa – hình ảnh khiến người đọc xúc động bởi tình cảm gia đình gắn bó hòa quyện cùng tình yêu quê hương.
Khổ thơ cuối là điểm nhấn đặc biệt, khơi mở tầng sâu ý nghĩa của bài thơ:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ…
So sánh quê hương với mẹ là một cách ví von thiêng liêng và xúc động. Mỗi người chỉ có một quê hương – như chỉ có một người mẹ để yêu thương, để nhớ nhung và để trở về. Câu thơ kết thúc bằng dấu ba chấm tạo nên kết thúc mở, gợi bao nghĩ suy về bổn phận, trách nhiệm của mỗi người với quê hương. Liệu có ai lớn lên mà không nhớ quê hương – nơi nuôi ta khôn lớn? Câu hỏi không lời ấy khiến mỗi chúng ta tự vấn lòng mình.
3/ Nêu và phân tích những nét nghệ thuật của bài thơ
Làm nên thành công của bài thơ không chỉ có nội dung, chủ đề mang tình ý sâu xa mà còn bởi hình thức nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Bài thơ được viết theo thể thơ sáu chữ, nhịp thơ 2/4 đều đặn, nhẹ nhàng như lời ru êm dịu của mẹ dành cho con. Điệp ngữ “Quê hương là…” được lặp lại nhiều lần như một cách khắc sâu hình ảnh quê hương trong tâm trí người đọc, đồng thời tạo sự gắn kết mạch lạc giữa các khổ thơ. Đỗ Trung Quân đã sử dụng nhiều hình ảnh thân thuộc, gần gũi với tuổi thơ như “chùm khế ngọt”, “con diều biếc”, “vàng hoa bí”, “giậu mồng tơi”… để định nghĩa quê hương một cách giản dị mà đầy cảm xúc. Biện pháp liệt kê và so sánh được sử dụng linh hoạt giúp mở rộng không gian cảm xúc và khắc họa rõ nét vẻ đẹp bình dị của quê nhà. Câu kết “Quê hương nếu ai không nhớ…” được bỏ lửng như một nốt lặng cuối bài, để lại dư âm lắng sâu, gợi nhắc đạo lý sống ân nghĩa, thủy chung. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hình thức và cảm xúc đã làm nên sức lay động nhẹ nhàng mà sâu lắng cho bài thơ.
III/ Kết bài : khẳng định giá trị tác phẩm + bài học ý nghĩa cho bản thân
Nhà văn Shelly từng nói: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp lên đời thành bất tử.” Bài thơ “Bài học đầu cho con” chính là minh chứng cho nhận định ấy. Tình yêu quê hương – một tình cảm tưởng chừng đơn sơ – đã trở nên bất tử qua những vần thơ nhẹ nhàng mà sâu sắc của Đỗ Trung Quân. Bài thơ như một bản giao hưởng tuổi thơ, lay động tâm hồn bạn đọc ở mọi lứa tuổi, để rồi mỗi lần đọc lại, ta vẫn thấy lòng mình ấm lên vì một miền quê trong trẻo sống dậy. Đó là bài học đầu – cũng là bài học cả đời – về tình yêu, cội nguồn, và những điều không thể thay thế trong trái tim mỗi con người.
Bài làm tham khảo
“Quê hương” – hai tiếng thân thương tựa lời ru ngọt ngào của mẹ, là dòng sữa mát lành nuôi dưỡng tuổi thơ ta lớn lên. Với nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương hiện lên không cao siêu, không vĩ đại mà bình dị, gần gũi, được cảm nhận bằng tất cả tình yêu da diết và chân thành nhất của một người con dành cho nơi chôn nhau cắt rốn. Bài thơ “Quê hương” là tiếng lòng mộc mạc ấy, là bản tình ca dịu dàng ngân nga về tình yêu quê hương đất nước.
Đỗ Trung Quân – một nhà thơ, nhà báo, người dẫn chương trình âm nhạc quen thuộc – đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng không chỉ bằng hình ảnh đời thường mà còn bằng những vần thơ giàu chất trữ tình. Trong đó, bài thơ “Quê hương” được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng, đi vào tâm trí bao thế hệ học trò Việt Nam. Từ những hình ảnh dung dị như chùm khế ngọt, con đường đến trường, cánh đồng, con diều… tác giả đã gợi dậy một miền ký ức yêu thương, để mỗi khi đọc lại hay nghe lại, lòng ta chợt rung lên một nhịp yêu quê nồng nàn.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi ngây thơ của một đứa trẻ:
“Quê hương là gì hả mẹ?”
Câu hỏi tưởng chừng hồn nhiên ấy lại chất chứa nỗi niềm thao thức khôn nguôi. Phải chăng, khi còn bé, ta chưa thể gọi tên rõ ràng hình hài của quê hương. Nhưng trong ánh mắt trẻ thơ, quê hương là tất cả những gì thân thuộc, ngọt ngào, hiện hữu quanh ta từng ngày. Tác giả đã nhẹ nhàng trả lời câu hỏi ấy bằng một loạt hình ảnh cụ thể, giàu sức gợi:
“Quê hương là chùm khế ngọt…
…Con về rợp bướm vàng bay.”
Chùm khế ngọt – thứ quả dân dã, gắn liền với cổ tích, với những ngày trèo hái chơi đùa. Con đường đi học rợp bướm vàng – hình ảnh gợi nhớ những buổi sáng mùa hè trong veo, khi tuổi thơ tung tăng tới lớp. Những chi tiết ấy tuy nhỏ bé, nhưng lại khắc sâu trong tâm khảm mỗi người. Nhà thơ đã hóa cái vô hình – tình yêu quê hương – thành cái hữu hình, hiện ra rõ nét trong từng hình ảnh thân thương.
Từng khổ thơ tiếp theo là từng lát cắt ngọt ngào của ký ức tuổi thơ:
“Quê hương là con diều biếc…
…Êm đềm khua nước ven sông.”
Con diều, cánh đồng, con đò, dòng sông – đó là không gian tuổi thơ, nơi ta lớn lên trong tiếng gió, tiếng nước, tiếng mẹ ru. Những hình ảnh ấy mang vẻ đẹp yên bình, trong sáng, là phần ký ức mà mỗi người luôn nâng niu.
Quê hương trong thơ Đỗ Trung Quân không chỉ là không gian vật lý, mà còn là không gian cảm xúc. Là chiếc cầu tre mẹ đi, là nón lá nghiêng che bóng, là hoa cau rụng trắng thềm, là đêm hè thoảng hương đồng nội. Mỗi hình ảnh thơ là một điểm nhấn xúc cảm, khơi gợi sự dịu dàng, thân thuộc mà tha thiết biết bao:
“Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che…”
Hình ảnh quê hương còn được hiện lên bằng những sắc màu dân dã: hoa bí vàng, giậu mồng tơi tím, bờ dâm bụt đỏ, hoa sen trắng tinh khôi… Mỗi loài hoa, mỗi sắc màu đều gắn liền với một phần ký ức, gợi nhắc đến vẻ đẹp chân quê mộc mạc mà sâu sắc.
“Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi…”
Không cần những mỹ từ cầu kỳ, nhà thơ chỉ chọn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với người Việt để nói lên vẻ đẹp của quê hương – bởi lẽ, cái đẹp chân thật nhất chính là cái đẹp từ những điều bình dị, đời thường.
Và rồi bài thơ khép lại bằng một triết lý sâu sắc:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người.”
So sánh quê hương với mẹ – một hình ảnh thiêng liêng nhất – nhà thơ đã nâng tầm tình cảm ấy lên thành một chân lý. Nếu ai quên quê hương, quên cội nguồn, thì cũng giống như một người quên mẹ, sẽ không thể lớn khôn, không thể trưởng thành về nhân cách.
Bài thơ “Quê hương” không chỉ đẹp bởi hình ảnh thơ dân dã mà còn hay bởi giọng điệu tha thiết, nhịp thơ nhẹ nhàng, ngọt ngào như lời ru. Biện pháp lặp cấu trúc, liệt kê các hình ảnh cụ thể đã tạo nên sự hài hòa và tính nhạc trong thơ, khiến bài thơ dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi sâu vào lòng người. Đó là lý do “Quê hương” trở thành một trong những bài thơ quen thuộc với biết bao thế hệ học trò Việt Nam.
Tố Hữu từng nói: “Một bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người.” “Quê hương” của Đỗ Trung Quân là một bài thơ như thế – giản dị nhưng thấm đẫm yêu thương, không hoa mỹ nhưng chân thành và sâu sắc. Mỗi câu thơ như một nhịp đập của trái tim yêu quê da diết, nhắc nhở chúng ta rằng: quê hương không chỉ là nơi để nhớ, mà còn là nơi để yêu, để sống và để gìn giữ suốt đời.